Theo quy đinh tại khoản 2, khoản 3 Điều 2 Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Ban hành kèm theo Quyết định số 57/QĐ-VKSTC-V12 ngày 10/03/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao) Vụ có nhiệm vụ, quyền hạn:..
“Kỹ năng thụ lý, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính; vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm”
Theo quy đinh tại khoản 2, khoản 3 Điều 2 Quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Ban hành kèm theo Quyết định số 57/QĐ-VKSTC-V12 ngày 10/03/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao) Vụ có nhiệm vụ, quyền hạn: Tiếp nhận, quản lý và giải quyết đơn, hồ sơ khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật về hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật của TAND các cấp; trả lời cho người khiếu nại khi không có căn cứ kháng nghị; báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có đủ căn cứ kháng nghị. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về hành chính, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật bị Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại các Tòa chuyên trách và Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.
Theo quy định tại các điểm c, điểm d Điều 13 Quyết định số 410/QĐ-VKSTC-V15 ngày 26/06/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao, Vụ kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Vụ 10) có 05 nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn: Giúp Viện trưởng VKSND tối cao thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao; đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp dưới; giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật của các Tòa án nhân dân cấp dưới.
Trong những năm qua, Vụ kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Vụ 10) đã tiếp nhận, thụ lý và giải quyết một khối lượng lớn đơn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đề nghị xem xét lại bản án, quyết định hành chính, kinh doanh thương mại, lao động có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Số lượng đơn được thụ lý giải quyết hàng năm tăng cả về số đơn, cả về số việc và tính chất ngày càng phức tạp.
Mặc dù, số lượng đơn hàng năm tăng cả về số lượng đơn và tính chất phức tạp của vụ việc nhưng Lãnh đạo Vụ đã luôn linh hoạt, có giải pháp phù hợp, phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên (sau đây gọi chung là công chức) kịp thời, hợp lý đảm bảo việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn, giải quyết án đúng quy định của pháp luật.
Đánh giá kết quảcông tác thụ lý, giải quyết đơn đề nghị, giải quyết án giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính; vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Những ưu điểm trong công tác thụ lý, giải quyết đơn, án
Trong công tác thụ lý, giải quyết đơn
Công tác thụ lý, giải quyết đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong nhiều năm nay đã được đơn vị thực hiện nề nếp. Đã phân công bộ phận chuyên trách tiếp nhận đầy đủ đơn do Vụ 12 chuyển đến. Sau khi vào sổ thụ lý trên phần mềm các đơn đó được chuyển cho các công chức được phân công để nghiên cứu, giải quyết;
Công tác quản lý đơn của Vụ 10 được thực hiện trên phần mềm quản lý đơn của ngành. Các thông tin về nội dung đơn,về công chức được phân công và tiến độ xử lý, giải quyết đơn đều được cập nhật vào phần mềm quản lý đơn của ngành, giúp cho việc nắm bắt thông tin tiếp nhận, thụ lý, xử lý và giải quyết đơn giữa đơn vị tiếp nhận và đơn vị giải quyết đơn nhanh chóng và thuận lợi hơn.
Vụ 10 đã phân công công chức chuyên trách thực hiện công tác tiếp nhận, thụ lý, phân loại đơn; phân công công chức giải quyết đơn theo địa bàn hoặc theo lĩnh vực chuyên sâu. Đồng thời phân công Lãnh đạo phụ trách để kịp thời nắm bắt, đôn đốc, thẩm định kết quả giải quyết.
Trong công tác thụ lý, giải quyết án
Công tác giải quyết án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật trong những năm qua của Vụ 10-VKSND tối cao đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được ghi nhận và đánh giá cao. Quá trình nghiên cứu, giải quyết án đã luôn chấp hành đúng, đầy đủ quy định của pháp luật, của Quy chế nghiệp vụ của ngành:
- Đã lập đầy đủ hệ thống sổ thụ lý, quản lý, theo dõi tiến độ, kết quả giải quyết án;
- Chất lượng giải quyết án ngày càng được nâng cao, tỷ lệ kháng nghị được Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chấp nhận cao;
- Việc lập hồ sơ kiểm sát đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định, đảm bảo đầy đủ về các tài liệu, chứng cứ, nhất là đối với các vụ án do Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị, hoặc khi không chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND tối cao;
- Chấp hành nghiêm chỉnh quy định về thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án đối với các hồ sơ do Chánh án TAND tối cao kháng nghị;
- Quy trình giải quyết án được tuân thủ theo đúng quy định
Những hạn chế và nguyên nhân
Công tác giải quyết án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật trong những năm qua của Vụ 10-VKSND tối cao tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song vẫn còn những hạn chế, đó là:
- Tỷ lệ giải quyết đơn, giải quyết án còn chưa cao so với số lượng đơn, án phải giải quyết;
- Tiến độ giải quyết đơn, giải quyết án còn chậm;
- Chất lượng kháng nghị đã được nâng cao, cơ bản các kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao được Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chấp nhận, song tuy chỉ là rất ít nhưng vẫn còn có kháng nghị không được chấp nhận.
Còn có những hạn chế nêu trên là do những nguyên nhân:
- Về nguồn nhân lực: Vụ 10-VKSND tối cao luôn trong tình trạng thiếu biên chế (17/28 trước đây, 17/22 hiện nay), chất lượng đội ngũ công chức không đồng đều, số các đồng chí có kinh nghiệm ít, số đông là công chức mới làm công tác nghiệp vụ hoặc mới vào ngành nên phần nào chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ;
- Quy định của pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến công tác giải quyết án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật còn nhiều vướng mắc, bất cập chậm được sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế;
- Áp lực công việc luôn được đặt ra đối với đội ngũ công chức, vì đây là lĩnh vực giải quyết án rộng và phức tạp cả về nội dung vụ việc cũng như văn bản pháp luật áp dụng khi giải quyết, bên cạnh đó, việc giải quyết đối với các đơn do các cơ quan Trung ương, các cơ quan của Quốc hội, các Đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến cần phải giải quyết sớm trong khi khối lượng công việc phải giải quyết luôn là rất lớn. Do vậy, gây nhiều áp lực cho công chức của đơn vị.
- Phần mềm quản lý đơn của ngành xây dựng đã nhiều năm nhưng chưa hoàn thiện và không đáp ứng được yêu cầu. Việc quản lý theo dõi đơn mặc dù đã được quy định và thực hiện thống nhất tập trung vào một đầu mối là Vụ 12; Vụ 10 thường xuyên cập nhật kết quả xử lý, giải quyết nhưng lại không thể in tổng hợp chung để phục vụ cho yêu cầu báo cáo của ngành cũng như yêu cầu của Lãnh đạo. Các báo cáo thống kê và các báo cáo tổng hợp số liệu đơn, án đều phải thực hiện bằng phương pháp thủ công.
Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong công tác thụ lý, giải quyết đơn, án giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính; vụ viêc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Khó khăn, vướng mắc trong tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết đơn
Hiện nay, việc tiếp nhận, phân loại đơn do Vụ 12-VKS tối cao chủ trì, quản lý. Mọi thông tin bước đầu đều do Vụ 12 cập nhật, sau đó chuyển đơn cho các đơn vị nghiệp vụ để tiếp tục xử lý, giải quyết. Tuy nhiên, do phần mềm của ngành chưa hoàn thiện, ngay từ đầu vào Vụ 12 chưa phân đơn theo từng loại án (VD: đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm án hành chính; đơn đề nghị kháng nghị giám đốc, thẩm tái thẩm án kinh doanh thương mại; đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm án lao động; …) dẫn đến tình trạng không tổng hợp, đánh giá được từng loại đơn cụ thể. Vụ 10 muốn phân loại đơn thì phải thực hiện kiểm đếm, thống kê bằng phương pháp thủ công rất mất thời gian. Như vâỵ, việc phân loại, xử lý ban đầu của Vụ 12 là rất quan trọng vì trên cơ sở các dữ liệu đó phần mềm mới có thể tổng hợp chính xác, cụ thể các thông tin theo yêu cầu quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các đương sự không bị hạn chế quyền đề nghị xét lại bản án, quyết định hành chính, kinh doanh thương mại, lao động có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm nên tình trạng gửi đơn đề nghị tràn lan đang diễn ra phổ biến. Cá biệt có những vụ việc có rất nhiều đơn, được gửi qua nhiều nguồn khác nhau dẫn đến có những đơn trùng, nên số liệu thống kê đơn phải giải quyết lớn.
Hiện nay, số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động ngày một tăng, lượng đơn tồn mỗi năm ngày càng nhiều nên việc xử lý, giải quyết đơn chậm là điều không trách khỏi.
Việc phối hợp thống kê kết quả giải quyết đơn của Tòa án nhân dân tối cao đối với những đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà đương sự gửi đồng thời tới cả hai cơ quan Tòa án và Viện kiểm sát do chưa có quy định hoặc quy chế chung về việc thông báo, phối hợp giải quyết đơn của hai ngành là khó khăn không nhỏ đối với công tác kiểm sát, giải quyết đơn của ngành kiểm sát.
Bên cạnh đó việc thường xuyên thay đổi phân công công chức giải quyết đơn theo địa bàn hoặc theo lĩnh vực chuyên sâu cũng là một khó khăn lớn đối với việc quản lý của bộ phận tiếp nhận đơn cũng như công chức được phân công giải quyết đơn, giải quyết án.
Khó khăn, vướng mắc trong tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết án
Đây là lĩnh vực kiểm sát giải quyết án phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Các chính sách, văn bản pháp luật liên quan có nhiều thay đổi theo từng thời kỳ, một số văn bản pháp luật còn chồng chéo, hướng dẫn chưa cụ thể, thiếu rõ ràng dẫn đến việc các cơ quan tố tụng chưa thống nhất trong nhận thức,quá trình vận dụng còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhiều vụ việc công chức của hai ngành Tòa án và Viện kiểm sát không có chung quan điểm giải quyết.
Để giải quyết một vụ việc đòi hỏi công chức phải tốn nhiều thời gian công sức tìm tòi, nghiên cứu, đồng thời để tích lũy được kinh nghiệm sẽ là cả một quá trình trong khi cán bộ tuyển vào đơn vị luôn trong tình trạng chưa đủ về số lượng biên chế và phần lớn là cán bộ trẻ, mới vào ngành.
Việc quản lý, thống kê công tác thụ lý, giải quyết án nhiều năm nay Vụ vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công (ghi sổ). Mặc dù bộ phận đơn cập nhật kết quả giải quyết án vào phần mềm quản lý đơn nhưng còn nhiều bất cập. Phần mềm quản lý đơn không có đủ các tiêu chí mà quản lý án cần, chưa tận dụng được việc cập nhật dữ liệu của các bộ phận (văn thư lấy số giải quyết đơn, án; bộ phận đơn tiếp nhận, xử lý đơn và bộ phận thụ lý, giải quyết án) để tạo thành một hệ thống quản lý đơn, án thống nhất, hỗ trợ cho quá trình quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo.
Việc rút hồ sơ để nghiên cứu cũng gặp không ít khó khăn, cơ bản TAND các cấp đều thực hiện gửi hồ sơ cho VKS có yêu cầu, song cũng có Tòa án không gửi cho VKS mà gửi cho Tòa án cấp trên.
Kỹ năng trong công tác thụ lý, giải quyết đơn, giải quyết án giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Kỹ năng trong công tác thụ lý, giải quyết đơn
Tiếp nhận đơn: Đơn chuyển đến Vụ 10 được công chức chuyên trách tiếp nhận đầy đủ, kiểm tra về nguồn nhận đơn (Do Vụ 12 nhận và chuyển đến thì phân loại và thụ lý), trường hợp nhận qua bưu điện hoặc các cơ quan Trung ương, các cơ quan của Quốc hội, các Đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến hoặc Lãnh đạo Viện chuyển thì chuyển choVụ 12 để tiếp nhận và chuyển lại cho Vụ, công chức chuyên trách phân loại và thụ lý;
Phân loại đơn: Đối với số đơn đã thụ lý công chức chuyên trách thực hiện việc phân loại đơn theo địa bàn hoặc theo lĩnh vực chuyên sâu;
Thụ lý: Phần lớn đơn Vụ 10 nhận được là do đương sự gửi đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp -Vụ 12) theo đường bưu điện. Một số đơn tiếp nhận qua công tác tiếp dân, tại Phòng Tiếp dân - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hoặc đương sự gửi các cơ quan, tổ chức khác và được các cơ quan, tổ chức đó gửi đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các đơn gửi trực tiếp cho Vụ 10 theo đường công văn đều được vào sổ, lập danh sách chuyển lại Vụ 12 để tiếp nhận và chuyển lại cho đơn vị. Nói chung, việc tiếp nhận đơn được thống nhất quản lý theo một đầu mối. Sau khi tiếp nhận đơn từ các nguồn khác nhau, đơn vị thụ lý đơn tại phần mềm quản lý đơn của ngành. Đối với đơn của các cơ quan Trung ương, các cơ quan của Quốc hội, các Đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến, để đảm bảo việc tiếp nhận, xử lý nhanh chóng, kịp thời, lãnh đạo đơn vị yêu cầu lập sổ theo dõi riêng;
Phân công công công chức thực hiện nhiệm vụ giải quyết đơn: công chức chuyên trách thực hiện việc chuyển giao đơn đến từng công chức được phân công giải quyết, việc bàn giao đơn được lập sổ và ký nhận, đồng thời cập nhật thường xuyên kết quả xử lý, giải quyết đơn;
Khi có sự thay đổi địa bàn hoặc lĩnh vực chuyên sâu các công chức đã được phân công thực hiện việc bàn giao tất cả các đơn chưa giải quyết sang đồng chí mới được phân công tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Đồng thời, có sự kiểm tra, đối chiếu, rà soát giữa bộ phận tiếp nhận đơn và công chức các phòng giải quyết án, đặc biệt đối với đơn do các cơ quan Trung ương, các cơ quan của Quốc hội, các Đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến. Hàng tháng thực hiện việc thống kê, báo cáo tình hình tiếp nhận, giải quyết đơn cho Phòng Tham mưu tổng hợp và Vụ 12-VKSND tối cao;
Công chức được phân công nghiên cứu, đề xuất các biện pháp giải quyết. Khi nghiên cứu đơn cần kết hợp nghiên cứu bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để đối chiếu, xác định các căn cứ cho việc giải quyết. Đối với các vụ, việc có nhiều đơn, được chuyển đến từ các nguồn khác nhau thì nhất thiết phải nghiên cứu toàn bộ số đơn được gửi đến, có sự so sánh, đối chiếu nội dung của các đơn đó với nhau, nhất là các đơn được gửi đến sau, vì thực tế mỗi đơn lại cung cấp, bổ sung những tài liệu, chứng cứ khác nhau;
Từ kết quả nghiên cứu nội dung đơn, các tài liệu, chứng cứ và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, công chức đề xuất rút hồ sơ để nghiên cứu, giải quyết (Công văn rút hồ sơ phải do Lãnh đạo Vụ ký, không ủy quyền cho Kiểm sát viên cao cấp ký). Hiện nay, theo chỉ đạo của Lãnh đạo VKSND tối cao, khi giải quyết đơn phải có hồ sơ vụ án để nghiên cứu cả trong trường hợp đề xuất kháng nghị và cả trong trường hợp thông báo trả lời đương sự;
Thực hiện công tác thống kê, báo cáo: Hàng tuần, tháng, quý, sáu tháng và một năm đều thực hiện công tác thống kê, báo cáo đầy đủ theo quy định, đặc biệt là trường hợp báo cáo đột xuất, báo cáo phục vụ Báo cáo của Viện trưởng tại các kỳ họp của Quốc hội v.v
Kỹ năng trong công tác thụ lý, giải quyết án
Thụ lý: Ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vụ án từ nguồn do Tòa án cấp dưới chuyển đến theo yêu cầu rút hồ sơ của Viện kiểm sát, do TAND tối cao chuyển đối với các vụ án do Chánh án TAND tối cao kháng nghị, công chức thụ lý án phải kiểm tra hồ sơ, kiểm đếm bút lục. Trường hợp hồ sơ thiếu bút lục so với bảng kê gửi kèm thì phải có biên bản xác nhận tình trạng hồ sơ, thông báo cho Tòa án đã chuyển hồ sơ để bổ sung. Hồ sơ nhận được phải vào sổ theo dõi chặt chẽ và đầy đủ các thông tin chính của vụ án để làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát.
Phân công công chức thực hiện việc giải quyết án: Trên cơ sở số hồ sơ tiếp nhận, công chức thụ lý án xây dựng đề xuất, báo cáo Lãnh đạo Vụ phân công công chức giải quyết án đã đề xuất rút hồ sơ theo địa bàn hoặc lĩnh vực chuyên sâu để nghiên cứu, giải quyết. Việc giao nhận hồ sơ phải được lập biên bản bàn giao, có ký nhận.
Quy trình giải quyết án:
- Lập hồ sơ kiểm sát: Việc lập hồ sơ kiểm sát đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình nghiên cứu, giải quyết án. Khi lập hồ sơ kiểm sát các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm cần chú ý:
+/ Các thủ tục tố tụng của vụ án: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án và các quyết định khác như: Quyết định chuyển vụ án, quyết định tách nhập vụ án, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định hoãn phiên tòa, quyết định ủy thác thu thập chứng cứ, quyết định trưng cầu giám định, quyết định định giá tài sản (nếu có)….; Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đơn hoặc công văn đề nghị hoãn thi hành án của đương sự (nếu có) hoặc văn bản thông báo của cá nhân, cơ quan tổ chức, báo cáo đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát cấp dưới (nếu có); Công văn rút hồ sơ để nghiên cứu; Công văn của Viện kiểm sát yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan tổ chức cung cấp tài liệu để giải quyết vụ án.
+/ Các tài liệu chứng cứ cần photo: Tài liệu nguyên đơn; tài liệu bị đơn; tài liệu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; tài liệu cơ quan, tổ chức cá nhân cung cấp… có giá trị xác định nội dung khởi kiện, là chứng cứ chứng minh cần thiết để làm căn cứ cho việc xem xét vụ án, xem xét kháng nghị của Tòa án, bảo vệ kháng nghị của Viện kiểm sát.
+/ Tài liệu nghiên cứu vụ án của cán bộ, kiểm sát viên: Tài liệu trích cứu tóm tắt đơn khiếu nại của đương sự; tài liệu trích cứu nội dung quan trọng trong hồ sơ như các chứng cứ, các nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm; Báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án…
Đối với những hồ sơ do Tòa án nhân dân chuyển sang kèm theo kháng nghị của Chánh án Tòa án kháng nghị. Về cơ bản, việc lập hồ sơ cũng sẽ thực hiện lập theo phương pháp trên. Tuy nhiên, cần bổ sung các tài liệu như: Đơn của đương sự gửi Chánh án Tòa án đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; Quyết định kháng nghị của Chánh án và những tài liệu mới thu thập để làm căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có); Quan điểm của cán bộ kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án….
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án: Cần kết hợp nghiên cứu nội dung đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự, đối chiếu quyết định của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp để xác định căn cứ cho việc giải quyết vụ án;
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án công chức được phân công cần kiểm sát kỹ các vấn đề sau:
+/ Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
+/ Quyền khởi kiện và các điều kiện khởi kiện của đương sự;
+/ Xác định đúng đối tượng khởi kiện, người bị khởi kiện;
+/ Xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, nhất là đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan v.v.
+/ Xác định thời hiệu khởi kiện;
+/ Xác định được quan hệ pháp luật cần giải quyết; thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật; hiệu lực của các văn bản pháp luật có liên quan để kiểm sát tốt việc áp dụng pháp luật của Tòa án;
+/ Đối chiếu việc áp dụng pháp luật trong các bản án, quyết định để phát hiện vi phạm.
- Công chức được phân công giải quyết án xây dựng tờ trình báo cáo Lãnh đạo đơn vị, tóm tắt nội dung vụ án, quá trình giải quyết của Tòa án các cấp, nhận xét, đánh giá và nêu rõ quan điểm đề xuất gứi Lãnh đạo đơn vị để thẩm định. Phó vụ trưởng được phân công phụ trách thực hiện việc thẩm định tờ trình. Khi quan điểm của Phó vụ trưởng thống nhất với quan điểm đề xuất của công chức:
+/ Trường hợp không có căn cứ kháng nghị thì công chức xây dựng văn bản thông báo trả lời đương sự trình Phó vụ trưởng ký;
+/ Trường hợp có căn cứ kháng nghị thì báo cáo Vụ trưởng để xin ý kiến. Nếu Vụ trưởng thống nhất quan điểm đề xuất thì đăng ký báo cáo Lãnh đạo Viện phụ trách, khi Lãnh đạo Viện phụ trách thống nhất thì công chức xây dựng dự thảo kháng nghị trình Lãnh đạo đơn vị thẩm định và trình Lãnh đạo Viện phụ trách ký ban hành kháng nghị;
Khi quan điểm của Phó vụ trưởng không thống nhất với quan điểm đề xuất của công chức thì báo cáo xin ý kiến của Vụ trưởng.
Giải pháp nâng cao chất lượng thụ lý, giải quyết đơn, giải quyết án giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật tại các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
Để nâng cao chất lượng thụ lý, giải quyết đơn, giải quyết án giám đốc thẩm, tái thẩm hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật tại các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, cần tập trung thực hiện các giải pháp:
- Về nguồn nhân lực: Bố trí đủ số lượng biên chế được giao, quan tâm tiếp nhận các công chức có kinh nghiệm, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết và từng công tác trong lĩnh vực kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động. Phân công công tác phù hợp với năng lực, sở trường của công chức, nhưng theo hướng chuyên sâu để có thể đào tạo được những chuyên gia giỏi trong từng lĩnh vực;
- Về thiết lập hệ thống phần mềm, sổ sách thụ lý, theo dõi công tác giải quyết đơn, giải quyết án: Tiếp nhận, khai thác, sử dụng hệ thống phần mềm quản lý đơn của ngành, trên sơ sở đó có biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng hệ thống đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Bên cạnh đó cũng cần lập hệ thống sổ sách thụ lý, theo dõi quá trình tiếp nhận, giải quyết đơn, giải quyết án, cập nhật thông tin, tiến độ giải quyết để phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện. (Hiện nay, Vụ 10-VKSND tối cao phân công 01 công chức chuyên trách thụ lý đơn, 01 công chức chuyên trách thụ lý án);
- Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ: Quan tâm công tác tự đào tạo tại chỗ thông qua kết quả giải quyết các vụ án cụ thể, tổ chức các hội thảo, hội nghị tập huấn nghiệp vụ, cử công chức tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ do Viện kiểm sát các cấp tổ chức. Để thực hiện tốt công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động đòi hỏi mỗi công chức phải nghiên cứu không chỉ Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật hoạt động của các tổ chức tín dụng, Luật khiếu nại, Luật tố cáo v.v mà cần phải nghiên cứu cả pháp luật chuyên ngành có liên quan khác;
- Thực hiện công tác sơ kết, tổng kết, thông báo rút kinh nghiệm, chú ý thông báo rút kinh nghiệm thông qua kết quả giải quyết vụ án cụ thể;
- Công tác phối hợp với Tòa án nhân dân cùng cấp: Tăng cường việc trao đổi, phối hợp giữa hai ngành Viện kiểm sát và Tòa án, giữa Kiểm sát viên và Thẩm phán, kịp thời trao đổi, giải đáp những vướng mắc, khó khăn nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Trao đổi, thống nhất, ký kết Quy chế phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc kinh doanh thương mại, lao động giữa Viện kiểm sát và Tòa án cùng cấp;
- Quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, trong đó trang bị hệ thống phần mềm để khai thác, ứng dụng và sử dụng có hiệu quả sẽ có tác dụng tích cực trong công tác không chỉ đối với công tác chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện mà cả trong công tác thống kê, báo cáo.
Vụ 10, VKSND tối cao