Vừa qua, VKSND tối cao tổ chức thành công Hội nghị tập huấn nâng cao trách nhiệm phối hợp trong công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Tại Hội nghị có nhiều ý kiến tham luận về những kết quả đạt được và những biện pháp để kiểm sát tốt việc giải quyết tin báo...
Một số kết quả nâng cao trách nhiệm phối hợp trong công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Ngành kiểm sát nhân dân
Vừa qua, VKSND tối cao tổ chức thành công Hội nghị tập huấn nâng cao trách nhiệm phối hợp trong công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Tại Hội nghị có nhiều ý kiến tham luận về những kết quả đạt được và những biện pháp để kiểm sát tốt việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng một số ý kiến để các đơn vị tham khảo:
1. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp (Vụ 6) thực hiện tốt việc gắn công tố với hoạt động điều tra trong công tác điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo Quy chế phối hợp công tác số 02/VKSTC-C6-V1A ngày 15/6/2012:
Trong những năm gần đây, các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những kết luận mang tính định hướng hết sức quan trọng về trách nhiệm của VKS trong thực hành quyền công tố đấu tranh phòng, chống tội phạm ở giai đoạn điều tra. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” chỉ rõ: "Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra"; đến Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định cần “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”, “gắn công tố với hoạt động điều tra”. Nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng, ngày 06/12/2013 Viện trưởng VKSNDTC đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-VKSTC "Về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm".
Ngay sau khi ban hành Chỉ thị 06, Vụ 6 đã tổ chức triển khai, thực hiện nghiêm túc theo yêu cầu của Chỉ thị 06. Từ nhận thức về "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra" quan hệ phối hợp công tác giữa Vụ 6 và Cục 1 được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật và Quy chế số 02. Đồng thời, được xây dựng và thực hiện theo nguyên tắc phối hợp và có sự chế ước của VKS đối với hoạt động của CQĐT theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phạm vi quan hệ phối hợp công tác giữa Vụ 6 và Cục 1 được thực hiện giữa ĐTV, KSV, cán bộ và Lãnh đạo của hai đơn vị trong các hoạt động cụ thể là:
Thứ nhất,Phối hợp trong việc tiếp nhận, quản lý, phân loại, trao đổi, xử lý các tố giác tin báo về tội phạm. Khi xác định thông tin vi phạm pháp luật là tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền, lãnh đạo Cục 1 có quyết định phân công ĐTV kiểm tra, xác minh. Quyết định này được gửi ngay cho Vụ 6 để kiểm sát theo quy định; khi nhận được quyết định phân công của Cục 1, Lãnh đạo Vụ 6 có quyết định phân công KSV kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và gửi ngay quyết định phân công này cho Cục 1 để phối hợp thực hiện. Sau khi tiếp nhận được tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền điều tra của Cục 1 thì Vụ 6 chuyển ngay đến Cục 1 để tiến hành kiểm tra, xác minh theo quy định của pháp luật. Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà quá trình xác minh, có khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, Cục 1 đã có công văn trao đổi kèm theo hồ sơ, tài liệu có liên quan gửi đến Vụ 6 để nghiên cứu. Khi nhận được Công văn và hồ sơ của Cục 1, Vụ 6 đã cử ngay KSV nghiên cứu, đề xuất. Vụ 6 có quan điểm và hướng giải quyết thể hiện bằng văn bản trả lời kịp thời với Cục 1. Có trường hợp cần thiết 02 đơn vị tổ chức họp để cùng phối hợp giải quyết. Công tác phối hợp giải quyết giữa Vụ 6 và Cục 1 được thực hiện thường xuyên. Sau khi kết thúc xác minh, hồ sơ xác minh đã được Cục 1 chuyển đến Vụ 6. Sau khi nghiên cứu Vụ 6 đều đã có văn bản thống nhất quan điểm giải quyết của Cục 1. Đối với những trường hợp chưa thống nhất Vụ 6 có văn bản yêu cầu Cục 1 tiếp tục xác minh hoàn chỉnh hồ sơ, để xem xét có ý kiến giải quyết tiếp. Việc phân loại tin báo để xác định thẩm quyền điều tra của Cục 1 đã được trú trọng, các tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận Cục 1 và Vụ 6 đều đã vào sổ thụ lý, phân công ĐTV, KSV nghiên cứu, giải quyết theo quy định của pháp luật. KSV được phân công kiểm sát tố giác, tin báo tội phạm đã lập hồ sơ kiểm sát như một hồ sơ KSĐT vụ án hình sự như: có bản trích cứu, có báo cáo đề xuất, có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Vụ, đối với những tố giác chưa thống nhất với quan điểm của Cục 1, cần phải xác minh làm rõ thêm, KSV đã đề ra yêu cầu xác minh bằng văn bản, trước khi ký chuyển cho Cục 1 phải được lãnh đạo Vụ duyệt các nội dung yêu cầu xác minh.
Hàng tuần, Cục 1 có văn bản thông báo cho Vụ 6; hàng tháng, Vụ 6 có văn bản thông báo cho Cục 1 tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của Cục 1 mà Vụ 6 nắm được trong tháng trước đó; hàng tháng Vụ 6 cử KSV cùng ĐTV Phòng Tham mưu tổng hợp của Cục 1 để rà soát lại toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm.
Việc thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa hai đơn vị, trong thời gian qua đã bảo đảm mọi hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cục 1 đều được Vụ 6 kiểm sát chặt chẽ, đúng quy định của BLTTHS và Thông tư liên tịch số 06/2013.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát tố giác, tin báo về tội phạm, phải nâng cao trách nhiệm công tố ngay từ đầu. Đồng thời Vụ 6 đã chủ động phối hợp với Cục 1 ngay từ khi tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cục 1, chủ động đề ra yêu cầu xác minh; khẩn trương và nâng cao chất lượng trong việc nghiên cứu, đề xuất, có quan điểm xử lý những vụ việc do Cục 1 trao đổi. Trong quá trình kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ĐTV, KSV đã phối hợp chặt chẽ, thường xuyên đúng quy định của pháp luật. Những vụ việc lãnh đạo Cục 1 và Vụ 6 chưa thống nhất quan điểm giải quyết đều đã kịp thời báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo VKSNDTC để hai đơn vị phối hợp thực hiện.
Thứ hai, Phối hợp trong việc khởi tố, điều tra, truy tố các vụ án hình sự.
Phối hợp trong việc khởi tố, điều tra: Trong những năm qua, Vụ 6 đã phối hợp chặt chẽ với Cục 1 ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm như đã nêu trên, nên việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đều có sự trao đổi bàn bàn bạc thống nhất giữa hai đơn vị. Tuy nhiên, Sau khi nhận được quyết định khởi tố kèm theo các tài liệu liên quan, Vụ 6 đã cử ngay KSV nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để khẳng định việc Cục 1 khởi tố vụ án có căn cứ và đúng pháp luật hay không? Nếu thấy việc khởi tố vụ án rõ ràng là không có căn cứ, thì Vụ 6 yêu cầu Cục 1 hoặc tự mình ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án. Nếu quyết định khởi tố vụ án của Cục 1 có căn cứ và đúng pháp luật thì Vụ 6 yêu cầu điều tra và đề ra yêu cầu điều tra, phối hợp thu thập chứng cứ nhằm xác định người phạm tội để khởi tố bị can. Trường hợp Cục 1 khởi tố vụ án, đồng thời khởi tố bị can thì Vụ 6 kịp thời cử KSV khẩn trương nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. ĐTV, KSV thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ. ĐTV đã tích cực, khẩn trương điều tra và kịp thời chuyển các tài liệu cho KSV THQCT và KSĐT vụ án nghiên cứu. KSV đã chủ động nghiên cứu hồ sơ, tài liệu để đánh giá chứng cứ, chủ động đề ra yêu cầu điều tra ngay sau khi có quyết định phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can để ĐTV thực hiện, thu thập, củng cố chứng cứ, điều tra mở rộng vụ án. Việc đề ra yêu cầu điều tra có căn cứ, có chất lượng, có tính khả thi và cần thiết để góp phần đảm bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Phối hợp chặt chẽ trong việc thay đổi bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can và áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, trong việc phê chuẩn các quyết định tố tụng nói trên.
Trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ nhiều vụ án đã phát sinh những tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án thì ĐTV, KSV thụ lý vụ án đã thông báo kịp thời cho nhau để thống nhất quan điểm giải quyết và đề xuất lãnh đạo 02 đơn vị họp giải quyết.
Trước khi hết thời hạn điều tra vụ án, thời hạn tạm giữ, tạm giam. ĐTV và KSV thụ lý vụ án đã kịp thời thông tin cho nhau về việc sắp hết các thời hạn theo quy định của pháp luật và đã dự định những biện pháp tiếp theo như: Gia hạn thời hạn điều tra hoặc kết thúc điều tra vụ án; gia hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam v.v. để thống nhất và chủ động thực hiện. ĐTV và KSV đã phối hợp đẩy nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn chế việc gia hạn thời hạn điều tra vụ án. Việc gia hạn phải được sự thống nhất của Lãnh đạo 02 đơn vị.
Phối hợp chặt chẽ trong việc khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra như: dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi chi tiết khác của vụ án; phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức nhận dạng v.v. Trong hoạt động thu giữ, kê biên tài sản luôn gắn với hoạt động bắt, khám xét. Đây là công việc đòi hỏi phải kịp thời, chính xác, không được bỏ lọt và cũng không được thu giữ, kê biên những thứ không liên quan. Do vậy, giữa Cục 1 và Vụ 6 đã phối hợp làm tốt công tác này. Đồng thời, Vụ 6 đã kiểm sát chặt chẽ việc khám người, nhà ở, đồ vật, phương tiện v.v. của đối tượng. KSV đã xem xét kỹ các biên bản khám xét, các vật chứng niêm phong đảm bảo cho việc giám định, xem xét xử lý vụ án.
Trước khi kết thúc điều tra, theo đề nghị của ĐTV hoặc theo yêu cầu của KSV, ĐTV và KSV thụ lý vụ án đã phối hợp tốt trong việc hỏi cung tổng hợp đối với từng bị can, để tổng hợp toàn bộ hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện và để kiểm tra, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. ĐTV đã chủ động sắp xếp thời gian để KSV nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, thời gian nghiên cứu là 3 ngày làm việc, đối với những vụ án phức tạp thì không quá 7 ngày làm việc. Khi nghiên cứu hồ sơ, KSV phải tổng hợp được toàn bộ quá trình điều tra vụ án, đánh giá việc thu thập chứng cứ, tài liệu đã đầy đủ hay chưa; cần bổ sung chứng cứ tài liệu gì; rà soát về định tội danh truy tố cùng với các chứng cứ, tài liệu đã điều tra thu thập v.v.
Sau khi nghiên cứu, KSV đã có quan điểm như: thống nhất kết thúc điều tra vụ án hoặc có văn bản tiếp tục yêu cầu điều tra. Việc thống nhất kết thúc điều tra vụ án (đề nghị truy tố hoặc xử lý bằng biện pháp khác) phải được xác nhận bằng biên bản giữa ĐTV và KSV để làm cơ sở báo cáo Lãnh đạo 02 đơn vị, để Lãnh đạo 02 đơn vị có ý kiến chỉ đạo.
Đối với những vụ án phức tạp, khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ ĐTV, KSV sau khi hỏi cung tổng hợp đã có văn bản báo cáo lãnh đạo 02 đơn vị để tổ chức họp sơ kết việc điều tra và thống nhất quan điểm về đánh giá chứng cứ trước khi kết thúc điều tra. ĐTV dự thảo kết luận điều tra, chuyển cho KSV để KSV đọc, tham gia đóng góp ý kiến trước khi trình lãnh đạo Cục ký ban hành chính thức.
Phối hợp trong giai đoạn truy tố: Khi nhận được hồ sơ kết thúc điều tra cùng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, có một số vụ án còn thiếu những chứng cứ, tài liệu, thủ tục tố tụng. KSV thụ lý vụ án đã đề nghị ĐTV thụ lý vụ án phối hợp để bổ sung. ĐTV đã kịp thời phối hợp với KSV bổ sung tài liệu chứng cứ hoặc thủ tục tố tụng còn thiếu. Khi VKSNDTC (Vụ 6) có cáo trạng truy tố, ủy VKS địa phương THQCT và KSXX hoặc VKSNDTC (Vụ 6) có công văn hướng dẫn gửi VKS địa phương truy tố. Nhưng Cục 1 vẫn cử ĐTV thụ lý vụ án, cùng với lãnh đạo Cục phối hợp chặt chẽ với Vụ 6 để kịp thời nghiên cứu, cho ý kiến chỉ đạo đối với những vụ án có các tình huống phát sinh trong quá trình chuẩn bị xét xử của TAND địa phương như: có quan điểm khác nhau về tội danh, về chứng cứ và đường lối xử lý vụ án v.v.
Phối hợp trong việc ra quyết định xử lý vụ án: Trong trường hợp Cục 1 tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ bị can trong giai đoạn điều tra, đã có sự trao đổi phối hợp giữa ĐTV và KSV, kết quả trao đổi giữa ĐTV và KSV đã báo cáo lãnh đạo Cục 1 và Vụ 6 để xem xét thống nhất quyết định. Có một số trường hợp, sau khi Cục 1 kết thúc điều tra vụ án, cùng bản kết luận điều tra chuyển hồ sơ đến Vụ 6 đề nghị truy tố, nhưng Vụ 6 thấy có căn cứ ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ đối với bị can, Vụ 6 đã trao đổi với Cục 1 để thống nhất, đồng thời báo cáo Lãnh đạo VKSNDTC trước khi ra quyết định. Ngoài những nội dung phối hợp như đã nêu trên, Vụ 6 và Cục 1 còn phối hợp làm tốt công tác Ban hành các kiến nghị phòng ngừa vi phạm, tội phạm về xâm pham hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Thứ ba, Quan hệ phối hợp trong việc tổ chức các cuộc họp, Hội nghị sơ kết, Tổng kết giữa hai đơn vị: Việc tổ chức các cuộc họp bàn thống nhất quan điểm chỉ đạo và đường lối giải quyết các vụ án cụ thể giữa Lãnh đạo 02 đơn vị được thực hiện trên cơ sở đề xuất của ĐTV và KSV. Trong thời gian qua, giữa Vụ 6 và Cục 1 đã thường xuyên tổ chức các cuộc họp đột xuất tại Cục 1 cũng như ở Vụ 6 để giải quyết kịp thời các tố giác, tin báo về tội phạm và án khởi tố, điều tra. Ba tháng một lần Cục 1 chủ trì họp với Vụ 6 để đánh giá tình hình tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cục 1; công tác giải quyết án; công tác phối hợp giữa hai đơn vị và đề ra phương hướng phối hợp công tác trong thời gian tiếp theo. Định kỳ 6 tháng, 01 năm Cục 1 chủ trì phối hợp với Vụ 6 tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết thực hiện quy chế phối hợp giữa Cục 1 và Vụ 6. Trong thời gian qua, Lãnh đạo Cục 1 và Lãnh đạo Vụ 6 đã phối hợp chặt chẽ, thường xuyên chỉ đạo ĐTV và KSV trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, trong khởi tố điều tra, truy tố các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cục 1. Kịp thời cho ý kiến chỉ đạo tháo giỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Trong trường hợp Lãnh đạo 02 đơn vị chưa thống nhất, đều đã báo cáo Lãnh đạo VKSNDTC xem xét, chỉ đạo giải quyết kịp thời.
Qua thực hiện chủ trương "Gắn công tố với hoạt động điều tra" trong công tác điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo Quy chế phối hợp công tác số 02/VKSTC-C6-V1A ngày 15/6/2012 (giữa Cục 6 với Vụ 1A - nay là Cục 1 với Vụ 6) Vụ 6 rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, tổ chức hội nghị quán triệt cho cán bộ, KSV thấy được vị trí, vai trò, trách nhiệm của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra; đồng thời để mỗi cán bộ, KSV thấy được muốn tăng cường công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra thì phải làm gì? cách làm thế nào?..thông qua đó để nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
Hai là, phối hợp chặt chẽ với CQĐT nắm chắc tình hình tố giác, tin báo về tội phạm, tăng cường trách nhiệm và nâng cao chất lượng phân loại, xử lý; theo dõi, đôn đốc việc xác minh, giải quyết của CQĐT, thực hiện đúng Thông tư liên tịch số 06/2013 và Điều 103 của BLTTHS.
Ba là,thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các biện pháp cụ thể trong Chỉ thị 06/2013 ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSNDTC "Về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm".
Bốn là,tăng cường phối hợp chặt chẽ với CQĐT trong suốt quá trình điều tra vụ án theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan được pháp luật quy định và theo quy chế phối hợp giữa hai cơ quan đã ban hành và ký kết.
Năm là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các biện pháp quản lý, chỉ đạo, điều hành như: đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, đổi mới các biện pháp THQCT và KSĐT v.v.
Quan hệ phối hợp giữa Vụ 6 và Cục 1 đạt được kết quả trên đây là do:
- Có sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo VKSNDTC đối với Cục 1 và Vụ 6, nhất là việc thực hiện chủ trương "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra" theo yêu cầu cải cách tư pháp; và việc đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSNDTC.
- Sự chỉ đạo chặt chẽ của Lãnh đạo Vụ 6 và Lãnh đạo Cục 1 trong quá trình phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị theo quy định của pháp luật và Quy định số 02/VKSTC-C6-V1A ngày 15/6/2012.
- Sự nỗ lực phấn đấu, tinh thần trách nhiệm của ĐTV, KSV trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khởi tố điều tra, truy tố các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Để nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa Vụ 6 với Cục 1 trong thời gian tới cần tiến hành một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Tiếp tục quán triệt để đội ngũ ĐTV, KSV có nhận thức thống nhất, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra; gắn công tố với hoạt động điều tra", cụ thể của công tác phối hợp, để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Trong quá trình thực hiện công tác quản lý, chỉ đạo. điều hành, lãnh đạo Vụ 6 và Cục 1 tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc nhằm thực hiện đúng nguyên tắc phối hợp giữa 02 đơn vị trên cơ sở thực hiện đúng các quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ ba, Luôn luôn đổi mới phương thức phối hợp giữa Vụ 6 và Cục 1, xây dựng mối quan hệ thực chất, hiệu quả trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi đơn vị trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xử lý vụ án.
Thứ tư, Quá trình phối hợp giữa 02 đơn vị thường xuyên thực hiện việc sơ kết. tổng kết rút kinh nghiệm, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập nảy sinh.
Thứ năm, Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Quy định số 02 về phối hợp trong công tác điều tra và THQCT và KSĐT của Cục 1 và Vụ 6.
2. Vụ 8, VKSND tối cao nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự:
Thực hiện Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, ban hành kèm theo Quyết định số 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao và các Quy định trong ngành Kiểm sát nhân dân. Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo VKSND tối cao, sự cố gắng, nỗ lực Lãnh đạo, kiểm sát viên, điều tra viên, cán bộ của 02 đơn vị, Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (Vụ 8) và Cục Điều tra (Cục 1)đã có nhiều cố gắng đề ra các biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả chất lượng công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự từ đó góp phần đẩy lùi những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực tư pháp trong đó có hoạt động tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và của ngành Kiểm sát nhân dân, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn có trách nhiệm phát hiện và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong hoạt động tư pháp đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao; trách nhiệm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao là tiếp nhận, tổ chức kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho cơ quan, đơn vị đã báo tin.
Thời gian vừa qua, Vụ 8 đã phối hợp chặt chẽ với Cục 1 đề ra nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chất lượng công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Từ thực tiễn hoạt động, Vụ 8 đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, để có cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi cho việc cung cấp trao đổi thông tin trong điều kiện hiện nay khi các quy định của pháp luật và quy định của ngành về mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị nghiệp vụ trong ngành còn chung chung, chưa cụ thể, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm, Lãnh đạo 02 đơn vị là Cục 1 và Vụ 8 đã thống nhất cùng nhau ký Quy định phối hợp số 01/VKSTC/C6-V4 ngày 28/3/2014 trong đó quy định nêu rõ trách nhiệm của từng đơn vị trong công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi đơn vị, đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Hai là, để bảo đảm nâng cao trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, vào đầu năm công tác, thủ trưởng đơn vị đều phân công lãnh đạo Vụ, lãnh đạo phòng, kiểm sát viên công tác tại Phòng Tham mưu, Tổng hợp là đầu mối quản lý tình hình vi phạm pháp luật của đơn vị cũng là đầu mối quản lý thông tin, tin báo tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo sự thông suốt, kịp thời trong quá trình phân loại và cung cấp thông tin. Những nội dung này đều được đưa vào Chương trình công tác của đơn vị, vào mỗi đợt sơ kết, tổng kết đều đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc.
Ba là, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm sát, kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ đối với VKSND cấp dưới, cán bộ, kiểm sát viên trong đơn vị đều chú trọng đến việc phát hiện những vụ, việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng thu thập những tài liệu cần thiết, theo đúng trình tự quy định; cập nhật đầy đủ vào sổ quản lý tố giác tin báo về tội phạm trong hoạt động tư pháp, đề xuất với lãnh đạo đơn vị chuyển tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao để xem xét theo thẩm quyền;
Bốn là,đối với những vụ việc có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp; những vụ việc cần thiết phải giải quyết nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, do lãnh đạo Viện giao đơn vị đều chủ động mời đại diện Cục 1 trao đổi, thống nhất nội dung phối hợp. Do vậy, những thông tin, tài liệu do đơn vị cung cấp cho Cục 1 đều có giá trị pháp lý và giá trị chứng minh cao.
Ngoài ra,đơn vị còn tăng cường phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ khác trong ngành như Vụ 7, Vụ 12 nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác tiếp nhận, phân loại và xử lý tin báo tố giác về tội phạm có liên quan.
Nhờ sự phối hợp tích cực, đồng bộ như trên, trong thời gian vừa qua công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả, chất lượng công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, Vụ 8 đề xuất, kiến nghị một số giải pháp như sau:
Một là, cùng với Luật tổ chức VKSND năm 2014 có hiệu lực, thời gian tới Quốc hội sẽ thông qua BLTTHS, BLHS, Luật về tạm giữ, tạm giam trong đó chứa đựng nhiều quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung và trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự nói riêng do vậy cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định của pháp luật này; Trong thời điểm hiện nay, nhiều quy định về mối quan hệ phối hợp và trách nhiệm giữa các đơn vị trong công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói chung chưa cụ thể, trước mặt các đơn vị cùng Cục 1 ký kết các quy định phối hợp nhằm bảo đảm quá trình thực hiện nhiệm vụ được thông suốt.
Hai là,tiếp tục tăng cường và nâng cao chất lượng công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự ở VKSND các cấp nói riêng, để kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, xác định nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm để kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra ngành, nêu cao vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận tổ quốc và cấp ủy Đảng đối với công tác này là biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp;
Ba là,tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp, các lực lượng, đơn vị, bộ phận trong việc đấu tranh phòng ngừa vi phạm; kịp thời phát hiện để nắm đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin liên quan đến tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, từ đó nêu cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên trong việc phân loại và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp ở các địa phương, đơn vị; Chú trọng đến công tác sơ kết, tổng kết các nội dung phối hợp để kịp thời điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong công tác phối hợp;
Bốn là,để nâng cao chất lượng công tác này cũng cần tiếp tục nhận được sự quan tâm, động viên, chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp và các đồng chí lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. VKSND tỉnh Bắc Giang phối hợp tốt trong việc kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp:
Năm 2011, VKSND tối cao ban hành “Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” (gọi tắt là Quy chế 116). Quy chế đã quy định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát địa phương trong công tác phối hợp với Cơ quan điều tra VKSND tối cao về việc phát hiện, tiếp nhận, báo cáo, kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra ở địa phương.
Trong những năm qua, VKSND tỉnh Bắc Giang đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quy chế 116 đến các đơn vị trong toàn Ngành. Thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo và phối hợp kiểm tra, xác minh những tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo yêu cầu của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong 2 năm 2014 - 2015, VKSND tỉnh Bắc Giang đã báo cáo và phối hợp với Cơ quan điều tra VKSND tối cao tiến hành kiểm tra, xác minh 09 vụ việc.
Trong thời gian qua, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã phát hiện, khởi tố một số vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, minh oan một số trường hợp và xử lý nghiêm minh đối với cán bộ tư pháp phạm tội dẫn đến oan sai, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp nói chung và ngành Kiểm sát nói riêng. Trong quá trình Cơ quan điều tra VKSND tối cao thực hiện các hoạt động điều tra tại địa phương, VKSND tỉnh Bắc Giang luôn quan tâm, phối hợp chặt chẽ như: Cung cấp các tài liệu phục vụ hoạt động xác minh, điều tra; sắp xếp thời gian, bố trí cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực tham gia; tạo mọi điều kiện thuận lợi về địa điểm làm việc, sinh hoạt cho cán bộ, Điều tra viên của Cơ quan điều tra để góp phần hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thông qua các hoạt động cụ thể trong quá trình phối hợp kiểm tra, xác minh, VKSND tỉnh Bắc Giang cũng đã nhận được sự quan tâm của Lãnh đạo Cơ quan điều tra VKSND tối cao để phối hợp giải quyết các vụ việc đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Chúng tôi luôn ý thức rằng việc phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc phát hiện, kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp luôn là trách nhiệm và phải được quan tâm đúng mức để hoàn thành nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát.
Trong thời gian tới, VKSND tỉnh Bắc Giang tiếp tục thực hiện nghiêm túc Quy chế 116 và Công văn số 3322/VKSTC-C1 ngày 26/8/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao. Trong đó tập chung phát hiện tố giác, tin báo về tội phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt động tư pháp, những vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, đồng thời tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong việc kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp để đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
4. VKSND tỉnh Tây Ninh nâng cao trách nhiệm tiếp nhận, xử lý tố giác tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp:
Kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là khâu công tác xuất hiện sớm nhất trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của Viện kiểm sát. Hoạt động này gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ cho các hoạt động khác trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS, như: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử. Kết quả thực tế cho thấy, nơi nào VKS thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì nơi đó công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự được tiến hành một cách thuận lợi, hạn chế được tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, VKS hai cấp tỉnh Tây Ninh đặc biệt chú trọng thực hiện khâu công tác này.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT ngày 02/8/2013 của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - VKSND tối cao (Thông tư 06) được ban hành, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra và VKSND trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Công tác kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND hai cấp tỉnh Tây Ninh đã từng bước đi vào chiều sâu, kéo giảm dần số tin báo tội phạm quá hạn giải quyết theo quy định của Bộ luật TTHS, các quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra đều được kiểm sát chặt chẽ, đảm bảo tính có căn cứ và đúng pháp luật. Kết quả đạt được cụ thể như sau: Năm 2012: tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đạt tỷ lệ 92,69%; năm 2013: tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đạt tỷ lệ 95,2%; năm 2014: tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đạt tỷ lệ 94,87%; 6 tháng đầu năm 2015: tỷ lệ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm đạt tỷ lệ 86,95%.
Nguồn tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận chủ yếu thông qua công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thông qua đơn thư tố cáo của nhân dân và các nguồn tin do cơ quan báo, đài chuyển đến. Các tin báo về tội phạm sau khi tiếp nhận được phân loại, thụ lý vào sổ quản lý tin báo theo đúng quy định của ngành cấp trên. Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, VKS hai cấp tỉnh Tây Ninh thực hiện nghiêm túc quy định tại khoản 1 Điều 103 Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn áp dụng của liên ngành trung ương, đặc biệt là TT 06; Quy chế công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được ban hành kèm theo Quyết định số 422/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014 của Viện trưởng VKSND tối cao và Quy chế công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực hiện điều tra việc tiến hành giám định được ban hành kèm theo Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014 của Viện trưởng VKSND tối cao. Bên cạnh đó, VKSND tỉnh Tây Ninh đã chủ động xây dựng Quy định phối hợp liên ngành với Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng và Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và hoạt động điều tra ban đầu; xây dựng Quy định phối hợp liên ngành với Tòa án và Công an về mối quan hệ phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự. Ngoài ra, VKS hai cấp còn chú trọng phối hợp với cơ quan Thanh tra thực hiện tốt Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT/VKSNDTC-TTrCP-BCA-BQP ngày 23/5/2006 của VKSND tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp trong việc phát hiện điều tra, xử lý các vụ có dấu hiệu tội phạm do cơ quan Thanh tra kiến nghị khởi tố.
Thực hiện các quy định tại chương IV và chương V của Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao được ban hành kèm theo Quyết định số 116/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao (QC 116), về trách nhiệm và quan hệ phối hợp giữa VKS các địa phương và Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao trong việc tiếp nhận, thu thập, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao và quy định về công tác báo cáo, thống kê. Viện trưởng VKSND tỉnh Tây Ninh đã phân công Phó Viện trưởng phụ trách khối hình sự, Trưởng phòng và 01 Kiểm sát viên Phòng 1A (Nay là Phòng 2) phối hợp với Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong công tác này. Kế hoạch công tác năm của VKS hai cấp đều đề ra việc phối hợp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao theo QC 116. Quá trình thực hiện, định kỳ hàng tháng, 6 tháng, 12 tháng các đơn vị tổng hợp báo cáo gửi về VKSND tỉnh Tây Ninh (qua Phòng 2) chịu trách nhiệm thống kê, tổng hợp báo cáo Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao theo đúng thời gian qui định.
Trong thời gian từ 25/02/2011 đến ngày 31/8/2015, VKS hai cấp phát hiện, tiếp nhận 07 tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền Cơ quan điều tra VKSND tối cao, đã tiến hành xác minh, đồng thời chuyển tin báo đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao; Cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố 03 tin, không khởi tố 01 tin. Ngoài ra, VKSND tỉnh Tây Ninh còn phối hợp với Cơ quan điều tra VKSND tối cao tiến hành xác minh 04 tin báo tội phạm tiếp nhận qua đơn tố cáo; Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự 03 tin.
Một số kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND tỉnh Tây Ninh:
Thứ nhất, để thực hiện tốt khâu công tác này, cán bộ, Kiểm sát viên phải nắm vững và thực hiện đúng quy định của Bộ luật TTHS, cũng như các văn bản hướng dẫn của liên ngành trung ương và quy chế nghiệp vụ của ngành về công tác kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, đặc biệt là TT 06. Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, VKSND, Cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp, theo quy định tại Điều 20 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKSND địa phương cần thực hiện nghiêm những quy định về trách nhiệm và quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra VKSND tối cao theo QC 116.
Thứ hai, đảm bảo thực hiện tốt công tác trực nghiệp vụ; phân công Kiểm sát viên tham gia đầy đủ và kiểm sát chặt chẽ các cuộc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo đúng Quy chế nghiệp vụ của Ngành, làm cơ sở cho công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm về sau.
Thứ ba, quá trình kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cán bộ, Kiểm sát viên cần tuân thủ và thực hiện đúng quy chế nghiệp vụ của ngành, mở sổ thụ lý tin báo và ghi chép đầy đủ các thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kiểm sát việc giải quyết tin báo tội phạm.
Thứ tư, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, Lãnh đạo Viện cần phân công Kiểm sát viên chủ động liên hệ phối hợp với Cơ quan điều tra nắm đầy đủ nội dung tin báo, cũng như các tài liệu, chứng cứ có liên quan, trên cơ sở đó trao đổi với Điều tra viên định hướng điều tra thu thập chứng cứ ngay từ ban đầu. Thực hiện nghiêm việc thông báo tình hình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và tình hình kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố giữa Cơ quan điều tra và VKS theo đúng quy định tại TT 06. Đối với các tin báo tội phạm phức tạp, có khó khăn về quan điểm đánh giá chứng cứ, Kiểm sát viên và Điều tra viên được phân công thụ lý giải quyết cần báo cáo ngay Lãnh đạo VKS và Cơ quan điều tra để xin ý kiến về định hướng điều tra, xác minh thu thập chứng cứ...
Thứ năm, khi Cơ quan điều tra ra quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm (quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự), Kiểm sát viên được phân công cần kiểm tra một cách toàn diện các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong hồ sơ để đánh giá tính có căn cứ và đúng pháp luật của các quyết định. Đối với các quyết định xử lý chưa đảm bảo căn cứ vững chắc, yêu cầu điều tra bổ sung. Đối với các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật, yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ hoặc VKS ra quyết định hủy bỏ theo đúng quy định của Bộ luật TTHS; nếu xác định có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì xác minh ban đầu, đồng thời báo cáo Cơ quan điều tra VKSND tối cao xử lý theo thẩm quyền.
Thứ sáu, Ngoài việc căn cứ vào những quy định của Bộ luật TTHS, các văn bản hướng dẫn của liên ngành trung ương và quy chế nghiệp vụ của ngành, VKS và Cơ quan điều tra địa phương cần xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác tiếp nhận, thụ lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Quá trình thực hiện, cán bộ, Kiểm sát viên phải kịp thời tập hợp những khó khăn, vướng mắc trong công tác phối hợp cũng như trong quy định của pháp luật, để kiến nghị liên ngành Trung ương có hướng dẫn chỉ đạo giải quyết kịp thời.
5. Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội:
Trong thời gian qua, VKSND thành phố Hà Nội đã quán triệt đầy đủ, sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc Công văn 386/VKSTC-C6 ngày 25/2/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao chỉ đạo việc tăng cường trách nhiệm phối hợp trong công tác tiếp nhận, quản lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Quy chế 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 và Công văn số 72/VKSTC-C6 ngày 03/3/2011 của Cục điều tra VKSND tối cao đến toàn thể Kiểm sát viên, cán bộ trong ngành Kiểm sát thành phố. Ngoài việc chủ động thu thập, tiếp nhận, xử lý kịp thời các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, VKSND thành phố Hà Nội còn tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử nhiều vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp do Cơ quan điều tra VKSND tối cao thụ lý, điều tra.
Trong quá trình giải quyết các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, Viện KSND thành phố Hà Nội thấy một số khó khăn như sau:
- Đối tượng phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp là người hiểu biết pháp luật, hiểu rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, biết rõ những quyền mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho họ. Trước khi phạm tội, họ vốn là cán bộ, có thể là đảng viên, có chức vụ quản lý nên thường có nhiều thủ đoạn che giấu, khai báo không thành khẩn, quanh co, hoặc chỉ khai nhận khi có bằng chứng cụ thể. Bên cạnh đó, đối tượng phạm tội còn có rất nhiều mối quan hệ để tác động, nên gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Phía cơ quan tư pháp chủ quản của cán bộ có hành vi phạm tội chưa kịp thời phối hợp vì nếu có cán bộ trong cơ quan phạm tội, sẽ ảnh hưởng xấu đến uy tín, thành tích của cơ quan tư pháp chủ quản, đến trách nhiệm của người lãnh đạo cơ quan nên cơ quan tư pháp dễ nảy sinh tâm lý muốn “gói kín” sự kiện phạm tội, để xử lý nội bộ. Khi đó, việc điều tra, xử lý vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn, không đạt hiệu quả cao trong công tác giáo dục, phòng ngừa chung.
- Gia đình, người thân của bị hại thường có thái độ rất bức xúc, chửi bới, xúc phạm các cơ quan tư pháp như Cơ quan Công an, Tòa án...
- Có những vụ việc cơ quan báo chí, thông tin đại chúng đưa tin liên tục, nhiều chiều, thậm chí có những thông tin không chính xác, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng...
Một số kinh nghiệm của VKSND thành phố Hà Nội:
Thực hiện tốt Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/8/2013 của Bộ Công an - Bộ Quốc Phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - VKSND tối cao về việc hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Chỉ thị số 06 của Viện trưởng VKSND tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm” và xuất phát từ thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn thủ đô, ngày 15/7/2014, VKSND thành phố Hà Nội cùng với Công an thành phố Hà Nội chủ trì xây dựng, ban hành Quy chế phối hợp giữa Công an và VKSND hai cấp thành phố Hà Nội trong việc điều tra, giải quyết các vụ án hình sự, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Việc nâng cao trách nhiệm trong công tác tiếp nhận, quản lý và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong các loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp cũng là một bộ phận quan trọng trong công tác tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng nêu trên, nên trong thời gian qua VKSND thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt các nội dung:
- Phối hợp chặt chẽ với Cơ quan Công an (PC44, PC45, Trại tạm giam) để nắm bắt thông tin vi phạm, tội phạm, xác minh, thu thập tài liệu kịp thời báo cáo Cơ quan điều tra, Vụ 2 và Lãnh đạo VKSND tối cao xin ý kiến.
- Tạo sự đồng thuận từ phía cơ quan tư pháp chủ quản của cán bộ có hành vi phạm tội về việc cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội.
- Trực tiếp phân công các Kiểm sát viên có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp để kiểm sát tốt ngay từ khi khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Trên cơ sở dấu vết thu thập được, Điều tra viên và Kiểm sát viên trao đổi, bàn bạc để có cách thức hỏi cung phù hợp với bị can nhằm tìm ra sự thật vụ án. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên luôn nâng cao trách nhiệm trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra; đặc biệt đối với vụ án có đông bị can tham gia thì Điều tra viên, kiểm sát viên nghiên cứu kỹ lưỡng, xác định bị can nào là mắt xích yếu thì tập trung đấu tranh khai thác trước để làm cơ sở củng cố các đối tượng còn lại...
- Chủ động phối kết hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong việc điều tra, truy tố và xét xử nhanh, chính xác đối với các vụ án hình sự xâm phạm hoạt động tư pháp; Áp dụng các hình phạt nghiêm khắc, xử lý kịp thời nghiêm minh các đối tượng vi phạm để răn đe, giáo dục tội phạm và tạo lòng tin cho quần chúng nhân dân.
- Thường xuyên bồi dưỡng nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, đảm bảo điều kiện, phương tiện làm việc tạo điều kiện cho cán bộ, Kiểm sát viên phát huy tính sáng tạo, thực hiện tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực tế; kịp thời khen thưởng, động viên đối với những cán bộ, kiểm sát viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
6. VKSND tỉnh Vĩnh Long chủ động phát hiện, thu thập thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
Từ khi có Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao ban hành kèm theo quyết định số 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao. Lãnh đạo VKSND tỉnh Vĩnh Long đã chỉ đạo đến các Phòng nghiệp vụ, VKSND các huyện, thị xã, thành phố triển khai thực hiện một cách nghiêm túc quy chế này.
Căn cứ vào Điều 16 của quy chế quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các địa phương. Với chức năng, nhiệm vụ của ngành, VKSND tỉnh Vĩnh Long chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương xây dựng quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Định kỳ hàng tháng thông qua họp giao ban, VKSND tỉnh tổng hợp, báo cáo về tình hình vi phạm, tội phạm và kết quả tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao nắm, theo dõi và có hướng chỉ đạo giải quyết kịp thời.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Hàng năm, Lãnh đạo VKSND tỉnh Vĩnh Long đã lập một tổ công tác gồm các đồng chí Lãnh đạo P1 và 1 đồng chí Phó Viện trưởng trực tiếp chỉ đạo. Có chương trình, nội dung công tác cụ thể, thông qua công tác kiểm sát, tích cực nắm thông tin vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Sau khi tiếp nhận, thông tin được chuyển ngay cho Lãnh đạo Viện để có phân công Kiểm sát viên thụ lý và có các biện pháp chỉ đạo cụ thể, đảm bảo tính hiệu quả, kịp thời.
Quá trình tiến hành xác minh của Kiểm sát viên tiến hành thu thập thông tin, tài liệu làm cơ sở, căn cứ xác định có hay không vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Từ đó báo cáo đề xuất đến Lãnh đạo Viện hoặc UBKS cho ý kiến chỉ đạo. Đối với những vụ việc qua báo cáo, đề xuất của Kiểm sát viên, có dấu hiệu của tội phạm cụ thể, Lãnh đạo Viện chỉ đạo kịp thời hoàn chỉnh hồ sơ báo cáo về Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao để xử lý theo thẩm quyền.
Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhận, giải quyết, Kiểm sát viên và Lãnh đạo phòng còn có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định đó là đơn tố cao hay là tin tố giác, có thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao hay không? Đối tượng của hoạt động này là cán bộ có chức danh tại các Cơ quan tư pháp, nên quá trình tiến hành xác minh thu thập thông tin, tài liệu cũng gặp nhiều khó khăn và thường mất nhiều thời gian.
Tuy còn những khó khăn nhưng Lãnh đạo Viện và các Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ đã cố gắng thực hiện hiệu quả các công tác thuộc trách nhiệm được giao và khi có kết quả xác minh, Kiểm sát viên xây dựng báo cáo trình Lãnh đạo Viện cho ý kiến. Sau đó, có báo cáo kịp thời về Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Do làm tốt công tác trên trong thời gian qua các đơn tố cáo mà đơn vị gửi về Cơ quan điều tra đều đúng và chính xác. Từ đó nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát và thực hiện có hiệu quả quy chế việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan điều tra Viện KSND tối cao.
Với kết quả đạt được như trên, Viện KSND tỉnh Vĩnh Long đã rút ra được những kinh nghiệm, giải pháp trong thời gian qua đó là:
- Lãnh đạo Viện luôn có sự quan tâm, sâu sát đối với khâu công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, ngay từ đầu năm chỉ đạo các phòng nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện xây dựng chương trình thực hiện.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm túc Quy chế và nhất là Thông tư liên tịch số 06/2013 hướng dẫn về việc tiếp nhận, thu thập các tố giác, tin báo về tội phạm.
- Khi tiếp nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo mà chủ yếu đối tượng là cán bộ thuộc các cơ quan ban ngành, Lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên có năng lực, kinh nghiệm thụ lý tiến hành xác minh. Qua kết quả xác minh nếu thấy thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra thì báo cáo ngay cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
- Khi Điều tra viên của Cơ quan điều tra xuống địa phương làm việc và có yêu cầu hỗ trợ xác minh thì cử ngay Kiểm sát viên có năng lực tiến hành xác minh theo yêu cầu và cung cấp hồ sơ tài liệu có liên quan.
Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quy chế ngày 14/4/2011 và nhất là Thông tư liên tịch số 06/2013 ngày 02/8/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC hướng dẫn thi hành việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện KSND tỉnh Vĩnh Long đề xuất tới Lãnh đạo VKSND tối cao một số nội dung như sau:
- Tăng cường tập huấn cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên được phân công tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua đó, khi cần thiết có thể hỗ trợ cho Cơ quan điều tra trong việc xác minh ban đầu đối với các tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
- Hàng năm có tổng kết rút kinh nghiệm để phát huy những mặt tốt, khắc phục những hạn chế yếu kém, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc.
- Đối với các thông tin mà địa phương chuyển về Cơ quan điều tra, quá trình xử lý cần có thông tin với địa phương để có sự hổ trợ cần thiết, nâng cao tính hiệu quả; Kết quả xử lý các vụ việc nên thông báo cho Lãnh đạo Viện kiểm sát địa phương biết tạo nhận thức chung, tạo sự phối hợp tốt cho các Cơ quan tư pháp địa phương.
Đây là công tác thực hiện theo Quyết định 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 của Viện trưởng Viện KSND tối cao; kiểm tra xác minh ban đầu tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là nhiệm vụ được thực hiện song hành cùng với nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Vì vậy đối với nhiệm vụ này cần được xác định vị trí pháp lý cụ thể, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình kiểm tra, xác minh. Ngoài ra cần xem xét, bổ sung chế độ ưu đãi cần thiết vì hoạt động khởi đầu có tính chất là nguồn, là đầu mối quan trọng cho các hoạt động tiếp theo của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
7. Một số kinh nghiệm của VKSND tỉnh Quảng Ngãi trông tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm hoạt động tư pháp.
7. Công tác phối hợp, kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp giữa VKSND tỉnh Bạc Liêu với Cơ quan điều tra VKSND tối cao:
Ngay sau khi tiếp nhận quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã tổ chức triển khai đến từng cán bộ, kiểm sát viên trong cơ quan, đơn vị. Từ đó, mỗi cán bộ, kiểm sát viên trong đơn vị luôn có nhận thức đúng tầm quan trọng trong công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên thời gian qua Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu thực hiện tốt công tác này, góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng.
- Đối với công tác tiếp nhận, quản lý và giải quyết vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao. Thời gian qua, Lãnh đạo Viện luôn có sự quan tâm sâu sát, chỉ đạo tích cực đơn vị có liên quan và phân công Kiểm sát viên thực hiện tốt công tác tiếp nhận, quản lý và giải quyết vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao, góp phần tích cực trong việc thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, đảm bảo đúng quy định của Quy chế 116. Qua đó, Lãnh đạo Viện phân công 01 Phó viện trưởng, 01 trưởng phòng và 01 kiểm sát viên làm nhiệm vụ tiếp nhận, theo dõi, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điền tra Viện KSND tối cao; làm đầu mối thông tin, báo cáo và phối hợp với Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao theo quy định tại Quy chế 116. Định kỳ hàng tháng đơn vị đã có văn bản báo cáo đúng quy định của Quy chế 116 về tình hình và kết quả tiếp nhận, quản lý và giải quyết vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao. Việc gửi báo báo đến Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao luôn được đơn vị thực hiện đầy đủ đúng quy định.
Những ưu điểm đạt được trong công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm trong xâm phạm hoạt động tư pháp:
- Thực tiễn công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu với Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao về kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm trong xâm phạm hoạt đông tư pháp, được Lãnh đạo Viện đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, đảm bảo công tác phối hợp đúng quy định của pháp luật và Quy chế 116. Qua đó, Lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm trong xâm phạm hoạt động tư pháp theo yêu cầu của Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và báo cáo đến Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao theo quy định, điển hình như: Tố giác về hành vi của chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu có sai phạm trong hoạt động thi hành án. Đối với tố giác này, đơn vị đã phân công kiểm sát viên tiến hành xác minh và báo cáo kết quả xác minh đến Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đảm bảo đúng quy định; tố giác về cán bộ Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu có hành vi nhận hối lộ… Đối với tố giác hành vi nhận hối lộ của cán bộ Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, đơn vị thấy vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu ra quyết định chuyển vụ án đến Cục điều tra Viện KSND tối cao để điều tra xử lý theo thẩm quyền đúng quy định của Quy chế 116…
Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện của VKSND tỉnh Bạc Liêu:
Quá trình thực hiện Công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm trong xâm phạm hoạt động tư pháp giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu với Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, một số trường hợp gặp khó khăn. Cụ thể như: Quan điểm nhận thức về quy định khoản 2 Điều 4 Quy chế 116. Do quy định về thẩm quyền điều tra chưa cụ thể rõ ràng nên thời gian qua, đơn vị có tiếp nhận 01 đơn của ông Huỳnh Văn Tính, Nguyễn Y Phụng và Huỳnh Thị Nhanh ngày 27/01/2015, nội dung đơn tố giác về hành vi “bắt giữ người trái pháp luật”, “không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” của cán bộ điều tra Công an huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xảy ra ngày 14/01/2015 tại ấp Thành thưởng A, xã An Trạch, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ vào tố giác này đối chiếu quy định tại khoản 2 Điều 4 Quy chế 116 thì thẩm quyền điều tra thuộc Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, khi tiếp nhận đơn tố giác, đơn vị làm thủ tục chuyển đơn ngày 30/01/2015 đến Cục điều tra Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao để xử lý theo thẩm quyền. Quan điểm của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có công văn số 599/KSTC-C6 (P1) ngày 05/6/2015 về việc chuyển đơn này đến Thanh tra Công an tỉnh Bạc Liêu để giải quyết theo thẩm quyền. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên chúng tôi thấy cần phải có quan điểm chỉ đạo thống nhất trong ngành để có quan điểm giải quyết thống nhất trường hợp tương tự xảy ra.
Nhằm đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nói chung và công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm trong xâm phạm hoạt động tư pháp giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu với Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian tới nói riêng, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Thông tư liên tịch tịch số 01 ngày 01/7/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng về việc tổ chức thực hiện thống kê tội phạm, thống kê hình sự, Thông tư liên tịch số 02/2012 ngày 22/3/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra chính phủ, Bộ công an, Bộ quốc phòng, quy định về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan Thanh tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố, Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/8/2013 của Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ tài chính, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Quy chế 116 về tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chặt chẽ, thường xuyên trao đổi, tăng cường mối quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp trên cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Thông tư liên tịch số 06/2013, Quy chế phối hợp… để nắm bắt đầy đủ và kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Qua đó, có biện pháp phân loại giải quyết nhanh đúng quy định.
- Tăng cường công tác phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Viện kiểm sát địa phương, Viện kiểm sát địa phương phải luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi hổ trợ trong công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm trong xâm phạm hoạt động tư pháp, nhằm đạt hiệu quả cao nhất hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Trên cơ sở các khó khăn, vướng mắc trên đây Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu có một số kiến nghị, đề xuất một số nội dung sau:
- Cần phải sớm có hướng dẫn thống nhất về thẩm quyền điều tra từng trường hợp cụ thể theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Quy chế 116, để địa phương dễ áp dụng trong thời gian tới.
- Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao cần quan tâm giải quyết nhanh các tin báo tội phạm trong xâm phạm hoạt tư pháp ở đia phương chuyển đến và thông báo cho địa phương biết theo quy định.
8. Kết quả công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hồ Chí Minh
Thực hiện “Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan Điều tra VKSND tối cao” ban hành kèm theo quyết định số 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng VKSND tối cao, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã phân công cho Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự về trật tự xã hội (Phòng 1A, nay là Phòng 2) thực hiện chức năng làm đầu mối tổng hợp, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và phối hợp với Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong việc kiểm tra, xác minh nguồn tin; thực hiện đầy đủ, đúng hạn các yêu cầu báo cáo định kỳ, đột xuất theo đúng Quy chế.
Sau 04 năm thực hiện, công tác phối hợp giữa VKSND Thành phố và Cơ quan điều tra VKSND tối cao thể hiện qua các hoạt động cơ bản như sau:
Thứ nhất: Báo cáo thông tin về tội phạm cho Cơ quan điều tra VKSNDTC
Thông qua công tác kiểm sát hoạt động tư pháp; công tác kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra 02 cấp; báo cáo ban đầu của Viện KSND cấp huyện, VKSND Thành phố kịp thời phát hiện các thông tin về vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao chuyển để báo cáo Cơ quan điều tra VKSND tối cao xử lý theo thẩm quyền.
Thứ hai: Phối hợp xác minh thông tin về vi phạm và tội phạm trên địa bàn Thành phố theo yêu cầu của Cơ quan điều tra VKSND tối cao
Đây là một trong những hoạt động giữ vai trò quan trọng đảm bảo tính chính xác, kịp thời và hiệu quả của việc xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp chặt chẽ, thực hiện có hiệu quả các yêu cầu xác minh thông tin về vi phạm, tội phạm của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao. Ngay sau khi nhận được công văn yêu cầu, Phòng 2 đã phân công KSV nghiên cứu, báo cáo Lãnh đạo về hướng xác minh nguồn tin: Nếu nội dung tin thuộc trách nhiệm của Phòng thì phân công Kiểm sát viên nghiên cứu, báo cáo; nếu nội dung thuộc trách nhiệm của các phòng nghiệp vụ hoặc Viện KSND cấp huyện thì có công văn yêu cầu các đơn vị báo cáo trong thời hạn nhất định để Phòng 2 tổng hợp, báo cáo Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao và cập nhật để làm báo cáo tháng.
Viện kiểm sát Thành phố tiếp nhận chủ yếu các trường hợp về tố giác vi phạm tội phạm trong lĩnh vực tư pháp liên quan đến hoạt động của Thẩm phán, Điều tra viên, Chấp hành viên thuộc các cơ quan tư pháp của Tòa án, Công an và Cơ quan Thi hành án Dân sự mới xảy ra gần đây.
Nhìn chung, khi nhận được yêu cầu phối hợp xác minh của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao, Lãnh đạo Viện kiểm sát Thành phố được phân công phụ trách công tác này đã chỉ đạo các đơn vị của Viện kiểm sát Thành phố phối hợp với các cơ quan liên quan xác minh thông tin để cung cấp cho Cơ quan điều tra nhanh chóng, đúng yêu cầu để làm cơ sở xác minh xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, thực tiễn công tác trong thời gian vừa qua cũng cho thấy những hạn chế, bất cập trong hoạt động phối hợp giữa VKSND địa phương với Cơ quan điều tra VKSND tối cao trong phát hiện, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, cần có biện pháp cụ thể như:
- Thứ nhất: Về thẩm quyền xác minh
Theo quy định tại khoản 02 Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chỉ Cơ quan điều tra được phép thực hiện chức năng xác minh kiểm tra nguồn tin báo, tố giác tội phạm. Đồng thời, tại khoản 8 Điều 2 Quy chế 116 cũng xác định: “Kiểm tra, xác minh nguồn tin là việc Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động nghiệp vụ để kiểm tra tính xác thực của nguồn tin”. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động điều tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm là trách nhiệm của Cơ quan điều tra nên khi VKSND địa phương tiếp nhận yêu cầu của CQĐT Viện KSND tối cao về việc phối hợp xác minh tố giác, tin báo về tội phạm thì chủ yếu là nghiên cứu hồ sơ do các cơ quan liên quan báo cáo, ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian, chất lượng báo cáo của VKSND địa phương cho Cơ quan Điều tra VKSND tối cao.
Chúng tôi cho rằng, việc cho phép Viện kiểm sát địa phương phối hợp với Cơ quan điều tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm là thật sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đảm bảo hiệu quả công tác giải quyết tố giác tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, điều này sẽ bị hạn chế hiệu quả trên thực tế hoạt động bởi hiện nay pháp luật chưa có qui định và chí ít, liên ngành TW cũng chưa có qui định thống nhất về vấn đề này. Thực tế cho thấy, hiệu quả hoạt động thực hiện sự uỷ thác của Cục điều tra VKSND tối cao phụ thược rất lớn vào mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và cấp uỷ địa phương. Do đó, để tăng cường hiệu quả hoạt động này, chúng tôi thấy cần kiến nghị, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế định của Bộ luật Tố tụng hình sự về vấn đề này; xem xét, điều chỉnh quy định về việc xác minh, kiểm tra tố giác, tin báo tội phạm của Viện kiểm sát để tạo điều kiện cho ngành kiểm sát thực hiện tốt chức năng điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo quy định.
Thứ hai: Về cách thức phối hợp
Công tác phối hợp xác minh thông tin về tố giác tin báo tội phạm theo yêu cầu của Cơ quan điều tra đối với VKSND TP Hồ Chí Minh nói riêng và các VKSND cấp tỉnh nói chung là còn khá mới mẻ. Việc xác minh các thông tin về tố giác tin báo tội phạm về tội xâm phạm hoạt động tư pháp có tính phức tạp cao và mất nhiều thời gian do nhiều khâu nghiệp vụ thực hiện. Ở đây cần lưu ý rằng, hiện nay nghiệp vụ điều tra, xác minh của VKS cấp tỉnh thành rất hạn chế do nhiều năm không thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, Quy chế 116 cũng không hướng dẫn cụ thể về công tác này nên các VKS địa phương còn lúng túng trong phối hợp xác minh tố giác tin báo tội phạm về xâm phạm hoạt động tư pháp.
Để khắc phục hạn chế này, Cơ quan điều tra VKSND tối cao cần tiến hành tập huấn và hướng dẫn về phương pháp hoạt động xác minh, kiểm tra thông tin vi phạm, tội phạm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho VKSND cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện tốt công tác phối hợp xác minh thông tin tội phạm; hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động nghiệp vụ của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
Bên cạnh đó, cần lưu ý vấn đề hiện nay CQĐT không phải trường hợp nào cũng tuân thủ nghiêm yêu cầu, quyết định của VKSND theo qui định của Điều 114 BLTTHS năm 2003. Cho nên chúng tôi đề nghị, trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền điều tra loại án được cho là thuộc thẩm quyền của Cục điều tra VKSND tối cao thi nên do VKSND tối cao quyết định tránh tình trạng tranh chấp, kéo dài thời hạn xử lý vụ án (Khoản 2, Điều 18 Qui chế 116).
Thêm vào đó, hiện nay tại TP.HCM có xảy ra tình trạng khiếu nại trong TTHS về việc bị bức cung nhục hình trong quá trình điều tra vụ án hình sự hoặc việc tố cáo hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án hình sự, dân sự, theo chúng tôi, khiếu nại này cần được xem là tin báo, tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và phải được xác minh, điều tra làm rõ và trách nhiệm này nên do CQĐT VKSND tối cao đảm nhận mà không nên giao cho VKSND tỉnh thành. Bởi việc điều tra xác minh này sẽ thuận lợi và khách quan hơn nêu như giao cho VKSND tỉnh thành làm đặc biệt là trong trường hợp những vụ án đang xem xét trách nhiệm bồi thường Nhà nước vì vừa phòng, chống tội phạm và vì vừa bảo vệ cho VKSND tỉnh thành trong việc loại trừ trách nhiệm bồi thường khi bị can, bị cáo được xác định là đã cố ý khi báo gai dối.
Thứ ba: Về nội dung yêu cầu phối hợp xác minh
Yêu cầu xác minh thông tin vi phạm, tội phạm do Cơ quan điều tra gửi đến VKS địa phương trong một số trường hợp còn mang tính chung chung theo nội dung đơn tố cáo; thiếu tính cụ thể, chưa nêu rõ các vấn đề cần xác minh, làm rõ; thời hạn yêu cầu báo cáo ngắn. Hạn chế này dẫn đến tình trạng kết quả xác minh thông tin của VKSND địa phương trong một số trường hợp chưa đầy đủ, phải xác minh thu thập nhiều lần, không đảm bảo tính kịp thời phục vụ công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra.
Để nâng cao chất lượng của hoạt động phối hợp xác minh tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, chúng tôi cho rằng, các yêu cầu của Cơ quan điều tra cần phải c ó Bản yêu cầu điều tra đảm bảo tính cụ thể, xác định rõ các nội dung cần xác minh, kiểm tra để làm căn cứ, cơ sở cho hoạt động phối hợp xác minh của VKS địa phương và có thời gian đủ dài đối với từng tin cụ thể mới có thời gian nghiên cứu, báo cáo.
Thứ tư: Về việc quản lý, phân loại tại đơn vị VKSND Thành phố
VKSND Thành phố Hồ Chí Minh giao Phòng 2 làm đầu mối tiếp nhận, quản lý và phối hợp với Cơ quan điều tra xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, nhưng công tác quản lý về kết quả hoạt động xác minh thông tin tại Viện kiểm sát địa phương chưa thực sự hoàn chỉnh và hiệu quả hoạt động phối hợp giữa các đơn vị vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng: Cơ quan điều tra phối hợp xác minh thông tin về tội phạm với Viện kiểm sát cấp huyện hoặc phòng nghiệp vụ nhưng Phòng 2 - đơn vị giữ vai trò đầu mối tiếp nhận quản lý đôi lúc chưa nắm được thông tin đầy đủ, kịp thời nên chưa thực hiện tốt nhiệm vụ báo cáo, quản lý theo quy định; Một số trường hợp yêu cầu phối hợp xác minh của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao được chuyển trực tiếp cho Thanh tra, các phòng nghiệp vụ hoặc VKS cấp huyện.
Nguyên nhân của tình trạng này là do việc phân loại của đơn vị chưa tốt, chưa nắm chắc Quy chế 116, trong khi yêu cầu phối hợp xác minh của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao thuộc nhiều lĩnh vực công tác khác nhau, do nhiều phòng nghiệp vụ thực hiện nên chuyển trực tiếp, không qua Phòng 2.
Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi cho rằng Lãnh đạo VKSND các cấp cần quán triệt cán bộ, công chức trong đơn vị nắm vững Quy chế 116, tăng cường công tác phối hợp giữa các đơn vị, phòng nghiệp vụ, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ thông tin, báo cáo về hoạt động tiếp nhận, phối hợp xác minh, xử lý tố giác tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trực thuộc, tạo điều kiện cho Phòng 2 thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đầu mối tiếp nhận, quản lý, phối hợp với Cơ quan điều tra xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp theo quy định của Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
Thứ năm: Về thông báo rút kinh nghiệm và phản hồi của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao
Mặc dù Quy chế 116 đã thực hiện được 04 năm và trong thời gian này, Viện kiểm sát Thành phố đã báo cáo cũng như thực hiện công tác phối hợp xác minh nhiều tố giác, tin báo về tội phạm theo yêu cầu của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao, nhưng Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao không có phản hồi về kết quả giải quyết đối với các vụ việc này để VKS Thành phố được biết. Hiện nay, chỉ mới có biểu mẫu báo cáo tháng ban hành kèm theo Quy chế 116, các biểu mẫu để quản lý, thống kê đối với công tác này chưa có nên các đơn vị bị động khi cần trích xuất dữ liệu. Mặt khác, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao không ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối với các địa phương về những khuyết điểm, hạn chế cần khắc phục để VKS địa phương chấn chỉnh, rút kinh nghiệm để công tác phối hợp giữa VKS địa phương với Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao về công tác này thật sự đạt chất lượng và hiệu quả.
8. Thông qua công tác kiểm sát, VKSND tỉnh Quảng Ninh đã chủ động phát hiện thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp chuyển đến Cơ quan điều tra VKSND tối cao giải quyết theo thẩm quyền:
Trong những năm gần đây tình hình an ninh chính trị trong tỉnh Quảng Ninh ổn định, trật tự xã hội được bảo đảm; công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm được tăng cường nên tội phạm đã giảm so với cùng kỳ những năm trước, trung bình hàng năm xảy ra khoảng trên 1.700 vụ án hình sự. Toàn tỉnh không có tội phạm về an ninh; các loại tội phạm khác đa số đều giảm so với cùng kỳ, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra 01 vụ. Dưới sự chỉ đạo của VKSNDTC và của cấp ủy địa phương, Viện KSND tỉnh đã chỉ đạo 2 cấp làm tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Qua đó góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có nhiều các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp, ngoài Tòa án và Cơ quan điều tra còn có các cơ quan được giao một số hoạt động điều tra như Bộ đội biên phòng, Kiểm lâm, Hải quan, Lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác trong ngành Công an, đặc biệt là có Trại giam của Bộ công gồm 2 phân trại đóng trên địa bàn giam giữ, cải tạo trung bình 3000 phạm nhân.
Vì vậy, ngoài việc làm tốt chức năng nhiệm vụ đấu tranh phòng chống các tội phạm thuộc thẩm quyền. Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh đã chú trọng chỉ đạo hai cấp kiểm sát cần chú trọng thông qua công tác kiểm sát, chủ động phát hiện thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp kịp thời chuyển đến Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao để giải quyết theo thẩm quyền.
Đặc biệt là, sau khi Viện KSND Tối cao ban hành Quy chế 116/2011 quy định về tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao. Lãnh đạo VKSND tỉnh đã tổ chức quán triệt quy chế 116 và ban hành văn bản số 131/VKS ngày 20/4/2011 chỉ đạo 2 cấpthông qua công tác kiểm sát, chủ động phát hiện thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp kịp thời chuyển đến Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao để giải quyết theo thẩm quyền. Ở cấp tỉnh, Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh đã thiết lập ngay đầu mối theo dõi, quản lý công tác phối hợp, phân công 01 đồng chí Phó viện trưởng, 01 đồng chí Trưởng phòng 1A (nay là phòng 2) và 01 đồng chí Kiểm sát viên trung cấp làm đầu mối thông tin, báo cáo và phối hợp với các cơ quan đơn vị, địa phương theo quy định tại Quy chế 116; mở sổ theo dõi, quản lý báo cáo định kỳ hàng tháng của các đơn vị, địa phương; tổng hợp tình hình vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền và kết quả công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát tỉnh với Cơ quan điều tra VKSND Tối cao.
Một số biện pháp VKSND tỉnh Quảng Ninh triển khai thực hiện như sau:
Trong giai đoạn kiểm sát việc phân loại xử lý tin báo tố giác tội phạm: Để đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện, khởi tố, ngay từ năm 2007, Lãnh đạo VKS tỉnh đã chủ trì ký Quy chế phối hợp với 07 ngành: Công an, Bộ đội biên phòng, Kiểm lâm, Hải quan, Quản lý thị trường, Thuế, Thanh tra Nhà nước cùng cấp về phân loại xử lý tin báo, tố giác tội phạm. Đồng thời chỉ đạo các VKS cấp huyện đồng loạt chủ trì ký Quy chế phối hợp với Cơ quan điều tra và 1 số ngành chức năng tại địa phương. Theo đó, các ngành chủ động báo tin cho VKS khi phát hiện có tội phạm xảy ra để VKS kiểm sát việc phân loại.
Ngày 02/8/2013, Liên ngành trung ương đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/TTLT hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh việc triển khai thực hiện Thông tư 06/2013 đến hai cấp kiểm sát, Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh đã chủ động bàn với 07 ngành chức năng có liên quan đã ký qui chế phối hợp trước đây với VKS (Công an, Hải quan, Biên phòng, Quản lý thị trường, Thanh tra, Thuế, Kiểm lâm) thống nhất chỉ đạo triển khai trong toàn tỉnh, đồng thời rà soát lại nội dung các Quy chế phối hợp ở hai cấp trước đây đã ký kết về phối hợp trong việc tiếp nhận, giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm để sửa đổi bổ sung cho phù hợp với các quy định mới của Thông tư 06, các Thông tư liên ngành khác và phù hợp với đặc điểm tình hình thực tiễn của tỉnh Quảng Ninh. Sau khi bàn bạc, ngày 01/7/2014, Lãnh đạo 8 ngành chức năng tỉnh Quảng Ninh đã thống nhất ký Quy chế phối hợp số 01/2014. Theo đó, ngoài việc phối hợp trong giải quyết tin báo tố giác tội phạm thực hiện theo Thông tư số 06, đã quy định cụ thể đối với các thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp khi phát hiện các cơ quan này phải chuyển ngay đến Viện kiểm sát để kịp thời phối hợp phân loại và chuyển đến Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao để giải quyết theo thẩm quyền.
Trong công tác Kiểm sát việc tạm giữ tạm giam và thi hành án hình sự: Đối với các tin báo về các trường hợp bị can, bị cáo, phạm nhân bỏ trốn, gây rối hay chết trong các nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh quy định phải báo cáo ngay về Vụ Kiểm sát việc tạm giữ tạm giam và thi hành án hình sự Viện KSND Tối cao (Vụ 8) và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ( tới đây gửi báo cáo thêm về vụ 6). Từ năm 2011 đến nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tổng số người bị tạm giữ, tạm giam tự sát hoặc đánh nhau chết trong nhà tạm giữ, trại tạm giam là 9 người, trong đó chết trong nhà tạm giữ 4 người ( Cẩm Phả, Tiên Yên, Đông Triều, Móng Cái), chết trong trại tạm giam 5 người. Các trường hợp nêu trên, Viện kiểm sát đều phân công Kiểm sát viên tham gia giám sát ngay từ ban đầu việc khám nghiệm hiện trường, tử thi, báo cáo ban đầu về Viện kiểm sát nhân dân Tối cao. Quá trình điều tra xác minh các vụ việc nêu trên xác định không có dấu hiệu của tội phạm liên quan đến hoạt động tư pháp. Cũng trong thời điểm nêu trên, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xảy ra 11 trường hợp phạm nhân trốn trại, đã bắt lại được 9 phạm nhân đưa ra xét xử. Qua điều tra các trường hợp trốn trại đều lợi dụng sơ hở của quản giáo trong khi đi lao động. Lãnh đạo các phân trại giam để xảy ra các trường hợp trốn trại đều đã nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm của cán bộ quản giáo, ra quyết định kỷ luật khiển trách và chuyển công tác khác. Chưa có trường hợp nào đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Từ năm 2011 đến nay hai cấp kiểm sát tỉnh Quảng Ninh tiếp nhận 35 đơn tố cáo có liên quan đến hoạt động tư pháp.Trong đó có 01 đơn tố giác tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra tại Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã chuyển tin báo này đến Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Vũ Thị Khánh về tội " Giả mạo trong công tác" để xử lý theo pháp luật. Đối với các đơn tố cáo còn lại quá trình phân loại xác định chỉ là những đơn tố cáo về hành vi hành chính, đạo đức lối sống của một số cán bộ tư pháp, không có dấu hiệu của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nên Viện kiểm sát đã chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Ngoài các lĩnh vực công tác nêu trên, các lĩnh vực công tác khác như kiểm sát hình sự, dân sự, kinh tế lao động hành chính,... Lãnh đạo Viện kiểm sát tỉnh cũng chỉ đạo các cán bộ, kiểm sát viên trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình nếu phát hiện thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp phải thẩm tra xác minh ngay ban đầu và kịp thời báo cáo về Viện kiểm sát tỉnh để giải quyết theo đúng quy chế 116.
Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao yêu cầu Viện kiểm sát tỉnh kiểm tra xác minh ( trong kỳ có 6 yêu cầu). Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng kịp thời triển khai, phân công các kiểm sát viên có năng lực tiến hành kiểm tra xác minh theo đúng nội dung yêu cầu của Cơ quan điều tra. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát hai cấp ở Quảng Ninh cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi phối hợp với các Điều tra viên, cán bộ của Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao khi đến làm việc tại tỉnh Quảng Ninh.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác phối giữa Viện kiểm sát 2 cấp ở Quảng Ninh với Cơ quan điều tra VKSND Tối cao trong thời gian qua cũng còn bộc lộ những thiếu sót, tồn tại. Đó là chưa phối hợp chặt chẽ trong công tác báo cáo thống kê, do số lượng thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không nhiều, nên cán bộ phân công làm công tác thống kê báo cáo chưa kịp thời báo cáo tổng kết về tình hình, kết quả thực hiện Quy chế 116 hàng năm. Một số Viện kiểm sát cấp huyện còn chưa thật sự chủ động phối hợp nắm các thông tin vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nên số lượng tin báo đối với loại tội phạm này còn hạn chế.
Từ thực tế thực hiện ở địa phương, để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục tồn tại, đảm bảo thực hiện tốt hơn việc thông qua công tác kiểm sát, chủ động phát hiện thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp kịp thời chuyển đến Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao để giải quyết theo thẩm quyền, VKSND tỉnh Quảng Ninh đề xuất một số vấn đề sau.
Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các địa phương và Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao phải phối hợp chặt chẽ trong công tác thống kê, báo cáo tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và việc tiếp nhận, thu thập, quản lý, phân loại xử lý tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao.
Thường xuyên sơ kết, tổng kết thực tiễn việc thông qua công tác kiểm sát, chủ động phát hiện thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp kịp thời chuyển đến Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao để giải quyết theo thẩm quyền, rút ra những kinh nghiệm hay, những việc làm tốt nhằm phổ biến nhân rộng, phát huy hiệu quả công tác này.
Đề nghị Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao tăng cường tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về việc tiếp nhận, thu thập, quản lý, phân loại xử lý tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao cho cán bộ và Kiểm sát viên được phân công làm đầu mối theo dõi, quản lý công tác phối hợp. Qua đó sẽ tạo ra sự chuyển biến về nhận thức của các cán bộ này, thấy được vai trò trách nhiệm của mình trong công tác được phân công.
Ngoài ra, trong thực tế đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư phạm cũng giống như tội phạm tham nhũng, tỷ lệ tội phạm ẩn rất cao. Các cơ quan đơn vị để xảy ra loại tội phạm này thường có xu hướng để xử lý nội bộ. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đề xuất với Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân Tối cao quy định cơ chế rõ ràng và hiệu quả để xử lý tình trạng này ngay trong nội bộ ngành và có cơ chế khen thưởng cho những người có công phát hiện. Đề nghị đưa vào dự thảo Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi hành vi biết rõ tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà che giấu, không báo cáo chuyển đến cơ quan có thẩm quyền sẽ là tình tiết tăng nặng của tội “Không tố giác tội phạm” hoặc tội “ Che giấu tội phạm”.
9. Kết quả phối hợp về công tác phát hiện, thu thập thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của VKSND tỉnh Vĩnh Phúc:
Tại tỉnh Vĩnh Phúc những năm vừa qua, thông qua công tác kiểm sát việc tiếp nhận, phân loại, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra hai cấp tỉnh Vĩnh Phúc, với cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân nhân tố cao. Viện trưởng VKS tỉnh đã phân công 3 KSV, trong đó 1đồng chí Phó viện trưởng, đồng chí Trưởng Phòng 1A(cũ) và một Kiểm sát viên có năng lực để tiếp nhận xác minh tin báo trong lĩnh vực này. VKS Vĩnh Phúc đã phát hiện 05 tin báo có dấu hiệu hành vi vi phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (năm 2011: 03 tin; năm 2012: 01 tin; năm 2014: 01 tin). VKSND tỉnh Vĩnh Phúc đã kịp thời ban hành văn bản chuyển Cục điều tra VKDND tối cao xác minh, xử lý theo thẩm quyền.
Tuy nhiên tất cả các tin báo này, một số tin gửi đến Cơ quan VKSTC đã tiếp nhận phân loại, một số tin lại chuyển về địa phương để xác minh xử lý nhưng thời gian chuyển chậm, lâu nên mất hết tính thời sự gây khó khăn cho việc xử lý. Một số tin báo có dấu hiệu tội phạm xâm phạm về các hoạt động tư pháp nhưng CQĐT – VKSTC trong quá trình điều tra không xử lý khởi tố điều tra vì đánh giá chưa đến mức khởi tố để xử lý dẫn đến tình trạng vì xử lý thiếu cương quyết không nghiêm, thiếu tính giáo dục răn đe đối với đội ngũ các bộ hoạt tư pháp ở địa phương.
1, Làm tốt công tác kiểm sát tin báo tố giác về tội phạm nói chung, công tác thực hành quyền công tố KSĐT, kiểm sát xét xử, qua đó phát hiện các vi phạm như: Có bỏ lọt tội phạm do cố ý không, truy tố sai khoản có động cơ mục đích gì? ra bản án sai do nhận thức hoặc do động cơ cá nhân tư lợi, ra quyết định đình chỉ hoặc hoãn thi hành án sai có mục đích gì…
2, Phối hợp tốt với các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương để nắm thông tin.
3, Phối hợp tốt với các cơ quan chính quyền địa phương, mặt trận tổ quốc các cấp để nắm tin.
4, Đặc biệt phối hợp tốt với các các cơ quan trong khối nội chính ở địa phương.
5, Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chức năng nhiệm vụ của CQĐT thuộc VKSTC theo luật định trên trang thông tin điện tử của VKS Vĩnh Phúc, trên cơ sở đó để nhân dân biết tố giác hành vi vi phạm của các cán bộ tư pháp.
9. VKSND thành phố Cần Thơ chủ động phát hiện, thu thập, kiểm tra thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp chuyển đến Cơ quan điều tra VSKND tối cao giải quyết theo thẩm quyền:
Thực hiện Quy chế 116 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao. Viện KSND thành phố Cần Thơ đã xây dựng kế hoạch, triển khai quy chế và kế hoạch đến cán bộ, kiểm sát viên Viện kiểm sát hai cấp thực hiện.
Xác định đây là lĩnh vực khó, người thực hiện tội phạm là những cán bộ làm việc trong các cơ quan tư pháp, có trình độ pháp lý, nắm vững pháp luật, có kinh nghiệm che giấu, xóa dấu vết sau khi thực hiện hành vi phạm tội, biết lắch luật, dự liệu trước đường đi nước bước để đối phó khi bị phát hiện. Nhận thức được điều đó, Viện KSND thành phố Cần Thơ đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, đề ra nhiều biện pháp, cách thức thực hiện nhằm chủ động thu thập thông tin, làm sao cho người biết sự việc chủ động đến Viện kiểm sát tố giác hành vi phạm tội như: Mở hộp thư tố giác tội phạm trước trụ sở Viện kiểm sát hai cấp; tìm hiểu, nắm bắt thông tin, động viên, giải thích, đề nghị người liên quan, người biết sự việc đến Viện kiểm sát tố giác; có cơ chế bảo vệ, bảo đảm quyền lợi cho người tố giác… Nguồn tố giác này là kênh thông tin ban đầu để Viện kiểm sát tổ chức xác minh sơ bộ; khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Viện kiểm sát chuyển ngay cho Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao.
Từ khi có Quy chế 116 đến nay, Viện KSND thành phố Cần Thơ đã phát hiện chuyển cho Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao 19 tin báo (trong đó 08 tin Cơ quan điều tra yêu cầu phối hợp xác minh, 07 tin do người dân tố giác, 02 tin trong quá trình kiểm sát tạm giữ tạm giam phát hiện, 02 tin trong quá trình kiểm sát điều tra phát hiện). Hiện còn tồn 01 tin đang xác minh.
Hoạt động phối hợp kiểm tra, xác minh của Viện kiểm sát địa phương gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian, một trong những nguyên nhân, đó là phần lớn các cơ quan (như Công an, Tòa án, Thi hành án) không hợp tác cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội do cán bộ, công chức của cơ quan đó thực hiện, vì Lãnh đạo các cơ quan này muốn bảo vệ cán bộ hoặc sợ ảnh hưởng đến uy tín của Ngành.
Kiểm sát viên làm nhiệm vụ còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng tiến hành xác minh, thiếu công cụ hỗ trợ cho việc xác minh; uy thế của Ngành để tác động yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa đủ mạnh để họ phải thực hiện (như yêu cầu xác minh nhanh chủ sở hữu số điện thoại, thu thập giữ liệu trong camera ghi hình, tài khoản tiền gởi, chuyển khoản …).
10. Công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Đà Nẵng:
Tiếp nhận, xử lý các tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố có vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là những đầu mối, căn cứ đầu tiên để cơ quan điều tra tiến hành thẩm tra, xác minh thông tin, từ đó xác định có hay không ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự. Những quyết định của cơ quan điều tra trong giai đoạn này có ảnh hưởng sâu sắc đến trách nhiệm, danh dự của mỗi công dân, tổ chức. Vì vậy, kiểm sát các hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc cần được thực hiện một cách khách quan và chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật.
Đặc biệt là việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố nói chung.
Ngay từ khi “Quy chế tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” ban hành kèm theo Quyết định số 116/2011/QĐ-VKSTC-C6 ngày 14/4/2011 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế 116) có hiệu lực thi hành,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tổ chức triển khai đến VKSND (hai cấp) nghiêm chỉnh, thống nhất thực hiện Quy chế này.
Nhìn chung, trong 05 năm qua, tình hình vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại địa bàn TP Đà Nẵng xảy ra ít. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tiếp nhận 03 đơn tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Ngoài ra, trong thời gian này Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân tối cao cũng đã chuyển 02 đơn tố giác trong xâm pháp hoạt động tư pháp đến Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng và yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng kiểm tra, xác minh các đơn tố giác. Cụ thể: đơn tố cáo ngày 01.9.2012 của ông Phan Văn Mai (trú xã Hoà Sơn, H. Hoà Vang, TP. Đà Nẵng) theo yêu cầu tại Công văn số 378/VKSTC-C6(P1) ngày 21.9.2012 của Cục điều tra - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao; đơn tố cáo của ông Nguyễn Thạo (1978, trú: tổ 02, thôn Dương Sơn, xã Hòa Châu, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng) theo yêu cầu tại Công văn số 139 ngày 19.3.2014 của Cục điều tra – Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng kiểm tra, xác minh trường hợp đơn tố giác đối với Thẩm phán Lê Văn Lâm. Sau khi tiếp nhận các Công văn yêu cầu của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng đã thụ lý vào sổ thụ lý, phân công Kiểm sát viên kiểm tra, xác minh đối với các vụ, việc này và đã có báo cáo kết quả kiểm tra, xác minh đến Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo đúng Quy chế 116.
Trên cơ sở đó cho thấy, Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng đã thực hiện tốt Quy chế 116 và công tác phối hợp với Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác phối hợp kiểm tra, xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xậm hoạt động tư pháp xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Ngoài ra, trong năm 2014, Liên ngành tư pháp thành phố Đà Nẵng cũng đã ký kết Quy chế số 01/2014/LN-QCPH ngày 30/5/2014 về việc phối hợp trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (sửa đổi, bổ sung năm 2014), qua đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng. Mặt khác, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trụ sở đóng tại thành phố Đà Nẵng nên việc phối hợp được thuận lợi hơn.
Bên cạnh những mặt thuận lợi trong việc thực hiện Quy chế 116 thì Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng cũng gặp một vài khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Quy chế 116 và đặc biệt là công tác phối hợp, kiểm tra xác minh thông tin vi phạm, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Cụ thể:
- Tại khoản 4 Điều 17 của Quy chế 116 quy định: “Trong trường hợp Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có yêu cầu kiểm tra, xác minh ban đầu đối với các cơ quan tố giác, tin báo về tội phạm xảy ra ở địa phương, thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm kịp thời tổ chức xác minh, thu thập tài liệu liên quan và có báo cáo kết quả xác minh chuyển đến Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao để giải quyết theo quy định của pháp luật”, nhưng việc kiểm tra, xác minh của Viện kiểm sát cấp tỉnh đối với thông tin theo Cục điều tra yêu cầu thì theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Thông tư 06, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng không quy định việc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có chức năng xác minh tố giác, tin báo tội phạm. Như vậy, khi làm việc để xác minh liên quan đến cơ quan tư pháp thì họ đặt vấn đề chức năng của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh xác minh ban đầu theo quy định nào của pháp luật? Đây là một trong những vấn đề khó khăn trong thực tế.
- Đối với những đơn tố giác, tin báo về tội phạm liên quan đến xâm phạm hoạt động tư pháp mà Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng tiếp nhận, sau khi Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng chuyển đơn đến Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao để xử lý, giải quyết theo quyền thì hầu hết các đơn này, Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng không nhận được thông báo kết quả xử lý nên gây khó khăn trong quá trình thụ lý kết quả giải quyết tố giác, tin báo tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân TP Đà Nẵng. Đặc biệt là các vụ án xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can nhưng Viện kiểm sát cấp tỉnh không được thông báo.
- Ngoài việc tăng cường trách nhiệm phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các cơ quan, đơn vị trong ngành thì việc phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các cơ quan, đơn vị ngoài ngành trong phân loại xử lý thông tin tội phạm cũng cần thiết vì hiện nay các nguồn thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn được phân loại chuyển đến từ cơ quan tư pháp khác như Toà án, Cơ quan điều tra (thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng), Thi hành án dân sự, hình sự; một số cơ quan khác giao tiến hành một số hoạt động điều tra như: Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển…Do vậy, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần chủ trì xây dựng Thông tư liên tịch quy định quan hệ phối hợp trong việc phát hiện xử lý các thông tin về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.