Thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức hệ thống VKSND mới gồm 04 cấp, Điều 40 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định hệ thống VKSND gồm có: VKSND tối cao...
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KSND NĂM 2014
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT ND CẤP CAO
Thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức hệ thống VKSND mới gồm 04 cấp, Điều 40 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định hệ thống VKSND gồm có: VKSND tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (VKSND cấp tỉnh); VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (VKSND cấp huyện). Như vậy, trong hệ thống VKSND mới có thêm VKSND cấp cao, là cấp kiểm sát chưa từng có trong hệ thống VKSND từ khi được thành lập cho đến nay.
1. Chủ trương thành lập VKSND cấp cao
Việc thành lập VKSND cấp cao gắn liền với sự ra đời của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao, nhằm thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005“tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”, “Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án”. Kết luận 79-KL/TWngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị đã xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, việc thành lập TAND cấp cao như sau: TAND cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị, trước mắt thành lập 03 TAND cấp cao tại 03 khu vực Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận 79-KL/TW cũng nêu rõ VKSND cấp cao có số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của TAND cấp cao.
Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Tòa án là một nội dung quan trọng của chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Trong mối quan hệ này, phạm vi thẩm quyền của từng cấp Viện kiểm sát luôn được xác định trên cơ sở thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án, bảo đảm thực hiện các hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử theo nguyên tắc “ngang cấp”. Do vậy, việc thành lập TAND cấp cao với tư cách là cấp xét xử độc lập (phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm) đã đặt ra yêu cầu tất yếu về sự ra đời của một thiết chế kiểm sát tương ứng là VKSND cấp cao.
Việc thành lập mới TAND cấp cao và VKSND cấp cao, tạo thành hệ thống TAND và VKSND 04 cấp là kết quả của việc phân định lại một cách hợp lý thẩm quyền của từng cấp tòa án và viện kiểm sát, khắc phục những bất cập của hệ thống 03 cấp hiện nay. Ở TAND cấp tỉnh không còn tồn tại cả 03 cấp xét xử (sơ thẩm; phúc thẩm; giám đốc thẩm, tái thẩm) biến TAND cấp tỉnh thành “siêu tòa”; không bố trí cấp xét xử phúc thẩm ở TAND tối cao để cấp này tập trung thực hiện công tác giám đốc thẩm, tái thẩm, đồng thời, có điều kiện làm tốt nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm, ban hành án lệ, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật và công tác quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp tối cao.
2. Vị trí của VKSND cấp cao
Trong 04 cấp viện kiểm sát thì VKSND cấp cao là cấp kiểm sát chỉ được tổ chức theo thẩm quyền xét xử của Tòa án, hoàn toàn không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, khôngchịu sự lãnh đạo của cơ quan Đảng ở địa phương, không có trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân; không có quan hệ công tác trực tiếp, thường xuyên với các cơ quan nhà nước ở một địa phương nhất định; không thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đây là điểm khác biệt lớn giữa VKSND cấp cao với các cấp viện kiểm sát khác (đặc biệt là VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện) trong hệ thống.
Do nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp cao gắn liền với thẩm quyền xét xử của TAND cấp cao nên VKSND cấp cao được tổ chức tương ứng với TAND cấp cao về số lượng và địa hạt tư pháp, trước mắt, có 03 VKSND cấp cao được thành lập tại 03 khu vực, đặt trụ sở tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ chế Đảng lãnh đạo và giám sát hoạt động VKSND cấp cao cũng có đặc thù riêng, theo Kết luận 79-KL/TW, các tổ chức Đảng của VKSND cấp cao sẽ trực thuộc Đảng bộ VKSND tối cao; VKSND cấp cao chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua VKSND tối cao hoặc cũng có thể chịu sự giám sát trực tiếp của các cơ quan này theo yêu cầu.
Trong hệ thống VKSND, VKSND cấp cao đồng thời có 02 vị trí: Là Viện kiểm sát cấp dưới của VKSND tối cao và là Viện kiểm sát cấp trên của VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới được điều chỉnh bởi nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành với những nội dung cơ bản được quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014 như sau: “Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên”; “VKSND cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của VKSND cấp dưới; Viện trưởng VKSND cấp trên có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của VKSND cấp dưới”. Tuy nhiên, do VKSND cấp cao là cấp kiểm sát duy nhất không thực hiện đầy đủ các lĩnh vực công tác thực hiện chức năng của VKSND theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 6 Luật tổ chức VKSND năm 2014 nên mối quan hệ giữa VKSND cấp cao với các cấp Viện kiểm sát khác có những điểm cần lưu ý sau đây:
- VKSND cấp cao chịu sự lãnh đạo trực tiếp của VKSND tối cao (VKSND cấp trên) về toàn bộ các mặt tổ chức và hoạt động; Viện trưởng VKSND cấp cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng VKSND tối cao.
- VKSND cấp cao không phải là cấp trên về toàn bộ các mặt tổ chức và hoạt động của VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện mà chỉ chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của 02 cấp Viện kiểm sát trên. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của VKSND cấp mình và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng VKSND cấp cao. Viện trưởng VKSND cấp huyện báo cáo công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của cấp mình với Viện trưởng VKSND cấp cao khi có yêu cầu (Điểm b khoản 2 Điều 65, Điểm a khoản 2 các điều 66, 67 Luật tổ chức VKSND năm 2014).
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp cao
Khoản 2 Điều 41 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp cao như sau: “Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao”.
Điều 29 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định TAND cấp cao có nhiệm vụ: (1) Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; (2)Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị.
Căn cứ vào các quy định trên, có thể xác định VKSND cấp cao có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việcthuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp cao, gồm có:
+ Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng cáo, kháng nghị;
+ Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng nghị;
+ Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp do TAND cấp cao thực hiện.
- Giải quyết kiến nghị, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi lãnh thổ thuộc thẩm quyền.
Theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 2 của Nghị quyết 82/2014/QH13 về việc thi hành Luật tổ chức VKSND (Nghị quyết 82/2014/QH13) thì từ ngày 01/6/2015, VKSND tối cao sẽ chuyển giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm cho VKSND cấp cao; VKSND cấp tỉnh sẽ chuyển giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cho VKSND cấp cao để VKSND cấp cao bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của một cấp kiểm sát mới, độc lập trong hệ thống VKSND. Đối với các vụ án, vụ việc đã phát sinh trước ngày thành lập VKSND cấp cao do VKSND tối cao và cấp tỉnh chuyển giao thì VKSND cấp cao tiếp nhận để giải quyết trong các trường hợp cụ thể sau đây:
- Bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mà chưa được giải quyết thì VKSND cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm tại TAND cấp cao;
- Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà chưa được giải quyết thì VKSND cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND cấp cao;
- Kiến nghị, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã được VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao thụ lý mà chưa được giải quyết thì VKSND cấp cao trực tiếp giải quyết. Viện trưởng VKSND cấp cao thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có căn cứ pháp luật quy định.
Như vậy là, với quy định của Nghị quyết 82/2014/QH13, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp cao theo Luật tổ chức VKSND năm 2014 sẽ được thực hiện ngay từ thời điểm Luật tổ chức VKSND năm 2014 có hiệu lực thi hành mà không cần chờ Quốc hội sửa đổi, bổ sung các bộ luật, luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính. Việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án của VKSND cấp cao được thực hiện theo trình tự, thủ tục do các bộ luật, luật về tố tụng hiện hành quy định.
4. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao
Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao gồm có Ủy ban kiểm sát, Văn phòng, các Viện và tương đương (khoản 1 Điều 44 Luật tổ chức VKSND năm 2014).
Một trong những nội dung đổi mới hết sức quan trọng của Luật tổ chức VKSND năm 2014 là đã đa dạng hóa vai trò của Ủy ban kiểm sát VKSND. Một mặt, Luật khẳng định vai tròquyết định của Ủy ban kiểm sát đối với những vấn đề quan trọng của VKSND; mặt khác, quy định bổ sung vai trò “tư vấn” của Ủy ban kiểm sát cho Viện trưởng trongviệc giải quyết án. Quy định này của Luật là sự kết hợp một cách hợp lý nguyên tắc tập trung dân chủ với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong Ngành, phát huy tác dụng tích cực của cơ chế Ủy ban kiểm sát trong thực tiễn; đồng thời, phù hợp với tư cách tiến hành tố tụng và nguyên tắc chịu trách nhiệm trong hoạt động tư pháp của Viện trưởng VKSND.
VKSND cấp cao tuy có thẩm quyền không đầy đủ như các cấp viện kiểm sát khác nhưng xét về vị trí, VKSND cấp cao là cấp trên của VKSND cấp tỉnh và cấp huyện về nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử, là lĩnh vực công tác rất quan trọng của VKSND. Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và thực tiễn chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của VKSND cấp tỉnh và cấp huyện trong công tác này, VKSND cấp cao đóng vai trò quan trọng trong việc giúp VKSND tối cao tổng kết kinh nghiệm trong lĩnh vực thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Bên cạnh đó, do TAND cấp cao là cấp xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nên các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền của cấp này thường có tính chất phức tạp. Chính vì vậy, việc tổ chức Ủy ban kiểm sát ở VKSND cấp cao là cần thiết và đúng đắn.
Ủy ban kiểm sát VKSND cấp cao thảo luận và quyết định việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của VKSND tối cao; thông qua báo cáo tổng kết công tác của VKSND cấp cao; xét tuyển người đang công tác tại VKSND cấp cao đủ điều kiện dự thi vào các ngạch kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp;Xem xét, đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp đang công tác tại VKSND cấp cao. Khi thực hiện thẩm quyền trên, Ủy ban kiểm sát phải ban hành nghị quyết, đây là điểm mới trong cơ chế làm việc của Ủy ban kiểm sát. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao.
Ủy ban kiểm sát VKSND cấp cao thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp theo đề nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Cơ cấu thành phần của Ủy ban kiểm sát VKSND cấp cao được xác định theo nguyên tắc chung như đối với Ủy ban kiểm sát ở các cấp VKS khác, Viện trưởng và các Phó Viện trưởng VKSND cấp cao là thành phần đương nhiên của Ủy ban kiểm sát. Ngoài ra, còn có một số Kiểm sát viên khác do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao; các kiểm sát viên này không bắt buộc phải đang giữ ngạch Kiểm sát viên cao cấp, nhưng phải là người đứng đầu các đơn vị nghiệp vụ quan trọng của VKSND cấp cao.
Do phạm vi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, VKSND cấp cao chỉ có mối quan hệ công tác trực tiếp với TAND cấp cao nên các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử trong VKSND cấp cao được tổ chức thành các“viện” để bảo đảm tương ứng với các Tòa chuyên trách của TAND cấp cao. Việc tổ chức xét xử của TAND cấp cao có ý nghĩa định hướng quan trọng cho việc tổ chức các viện thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của VKSND cấp cao. Theo các điều 32 và 33 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao có nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng gồm 03 thẩm phán chuyên biệt theo loại án hoặc Hội đồng là toàn thể Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao; Tòa chuyên trách TAND cấp cao (gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên) có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Như vậy, việc tổ chức xét xử ở TAND cấp cao có sự phân định rõ ràng theo cấp xét xử (phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm); trong từng cấp xét xử thì tổ chức các đơn vị xét xử theo loại án.
5. Cán bộ của VKSND cấp cao
5.1. Thẩm quyền quyết định biên chế của VKSND cấp cao
Biên chế, số lượng các loại công chức và người lao động khác của VKSND cấp cao do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định căn cứ vào tổng biên chế của ngành Kiểm sát nhân dân đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định (khoản 2 Điều 93 Luật tổ chức VKSND năm 2014).
5.2. Cơ cấu cán bộ của VKSND cấp cao
Khoản 2 Điều 44 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định rõ VKSND cấp cao có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng VKSND cấp cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác. Như vậy, ở VKSND cấp cao không có các chức danh tư pháp của Cơ quan điều tra và đối tượng cán bộ là viên chức do Cơ quan điều tra của VKSND và các đơn vị sự nghiệp công lập của Ngành kiểm sát nhân dân không được thành lập ở VKSND cấp cao.
5.3. Địa vị pháp lý của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp cao
Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp cao tại các điều 65 và 68 của Luật.
a) Về cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức: Viện trưởng và Phó Viện trưởngVKSND cấp cao đều do Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
b) Về nhiệm vụ, quyền hạn:
Với vị trí là người đứng đầu của một cấp kiểm sát, Viện trưởng VKSND cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác của VKSND cấp cao; quyết định các vấn đề về công tác của VKSND cấp cao; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng VKSND tối cao; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật.
Phó Viện trưởng VKSND cấp cao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công hoặc uỷ quyền của Viện trưởng VKSND cấp cao; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND cấp cao và trước pháp luật.
c) Về nhiệm kỳ, Viện trưởng và Phó Viện trưởngVKSND cấp cao đều có nhiệm kỳ 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
d) Về trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp cao trong thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp:
Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp cao phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình trong việc tranh tụng, kháng nghị và các hành vi, quyết định khác thuộc thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
5.4. Kiểm sát viên ở VKSND cấp cao
a) Thẩm quyền quyết định cơ cấu tỷ lệ ngạch Kiểm sát viên, số lượng Kiểm sát viên ở VKSND cấp cao
Theo quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại VKSND cấp cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao sau khi có ý kiến của Chính phủ.
Căn cứ cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên ở VKSND cấp cao đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, Viện trưởng VKSND tối cao quyết định số lượng Kiểm sát viên từng ngạch ở VKSND cấp cao.
b) Về cơ cấu ngạch Kiểm sát viên được bố trí ở VKSND cấp cao: ở VKSND cấp cao chỉ được bố trí 03 ngạch kiểm sát viên gồm: Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp. Do ở TAND cấp cao chỉ có Thẩm phán cao cấp (khoản 3 Điều 66 Luật tổ chức TAND năm 2014) nên các Kiểm sát viên cao cấp ở VKSND cấp cao được xác định là lực lượng chính thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử của TAND cấp cao. Các kiểm sát viên ở các ngạch khác có thể trực tiếp thụ lý vụ án, vụ việc theo sự phân công của Viện trưởng hoặc tham gia vào việc giải quyết các vụ án, vụ việc theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn (khoản 2 Điều 76, khoản 3 Điều 83 Luật tổ chức VKSND năm 2014).
c) Về việc xét tuyển, thi tuyển, tuyển chọn kiểm sát viên đối với người đang công tác tại VKSND cấp cao:
Ở VKSND cấp cao không tổ chức Hội đồng thi tuyển kiểm sát viên vào các ngạch cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Hội đồng này chỉ được tổ chức ở VKSND tối cao. Ủy ban kiểm sát VKSND cấp cao có nhiệm vụ xét tuyển người đang công tác tại VKSND cấp cao đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp và gửi hồ sơ dự thi về VKSND tối cao để tham dự kỳ thi. Việc đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm người đã trúng tuyển làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do Hội đồng thi tuyển thực hiện.
Đối với các kiểm sát viên đang công tác tại VKSND cấp cao thì Ủy ban kiểm sát VKSND cấp cao có nhiệm vụ xem xét, đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức.
Đối với người đang công tác tại VKSND cấp cao được xem xét, tuyển chọn để bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao thì Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao sẽ trực tiếp thực hiện việc xem xét, đề nghị Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao tiến hành tuyển chọn. Hội đồng này cũng chỉ được thành lập ở VKSND tối cao./.
(Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học)