Vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm hình sự vụ án Nguyễn Thanh Bình cùng đồng bọn phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật hình sự...
Rút kinh nghiệm thông qua công tác thực hành quyền công tốvà kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm
Vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm hình sự vụ án Nguyễn Thanh Bình cùng đồng bọn phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật hình sự. Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã phát hiện một số thiếu sót, vi phạm và ban hành thông báo rút kinh nghiệm. Trang tin VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo.
Nội dung và quá trình giải quyết vụ án: Bị cáo Nguyễn Thanh Bình và bị cáo Nguyễn Minh Đức là những đối tượng có nhiều tiền án tiền sự. Trong thời gian chấp hành án tại Trại giam B5 - Công an tỉnh Đồng Nai, hai bị cáo quen biết nhau và khi chấp hành án phạt tù xong cả hai thường liên lạc với nhau.
Khoảng 17 giờ ngày 23/08/2014, bị cáo Đức điều khiển xe mô tô 72H3-2329 đi đến tiệm bán kim loại bạc của Phạm Văn Chiến nhận 02 dây chuyền bằng kim loại màu vàng (vàng giả) có trọng lượng mỗi dây chuyền là 10 chỉ và để vào túi xách màu nâu. Bị cáo Đức điều khiển xe đến nhà trọ thuê tháng của bị cáo Bình ở phường Long Bình Tân, Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Khi gặp Bình thì Đức rủ Bình đi đến Vĩnh Long để cầm vàng giả cho người anh, nếu cầm được 01 sợi dây chuyền giả sẽ được hưởng 5.000.000 đồng. Bị cáo Bình đồng ý. Khoảng 03 giờ ngày 24/08/2014 Đức và Bình ra Bến xe ngã tư Vũng Tàu đón xe khách chạy tuyến Cà Mau, khi đón được xe khách, hai bị cáo để xe mô tô 72H3-2329 vào gầm xe, đến khoảng 09 giờ cùng ngày thì xe khách đến Vĩnh Long, bị cáo Đức và Bình xuống xe, bị cáo đức lấy xe mô tô chở Bình xuống tiệm vàn Kim Thạch, tại khóm 1, thị trấn Cái Nhum, huyện Mang Thít để cầm vàng giả.
Đến khoảng 10 giờ cùng ngày thì đến thị trấn Cái Nhum, hai bị cáo và quán uống nước. Một lúc sau, bị cáo Đức kêu bị cáo Bình đưa cái túi xách màu nâu, bị cáo Đức lấy ra một sợi dây chuyền đi cầm, sợi dây chuyền còn lại bị cáo Đức để trong bao thuốc lá Jet và bỏ vào giỏ xách giao cho bị cáo Bình cất giữ. Sau đó bị cáo Đức đi bộ đến tiệm vàng Kim Thạch và dặn bị cáo Bình “có gì thì điều khiển xe chở Đức chạy thoát”. Khi gặp anh La Văn Việt là chủ tiệm vàng thì bị cáo Đức lấy sợi dây chuyền đưa cho anh Việt và nói cầm với số tiền 20 triệu đồng, anh Việt đồng ý cầm. Do nghi ngờ là vàng giả và cảnh giác lần trước bị lừa nên anh Việt ra hiệu cho anh Phan Việt Dũng làm bảo vệ tại đây đi báo Công an.
Khi anh Việt ra hiệu cho anh Dũng đi báo Công an thì bị cáo Đức nhìn thấy và biết hành vi cầm vàng giả đã bại lộ nên bỏ chạy ra khỏi tiệm vàng. Lúc này, anh Việt tri hô lên “cướp, cướp” và rượt đuổi theo. Nghe tiếng la, bị cáo Bình điều khiển xe mô tô chạy đến chở bị cáo Đức tẩu thoát về hướng xã Chánh An, huyện Mang Thít. Chạy thoát được một đoạn khoảng 03 km thì cả hai bị quần chúng nhân dân và Công an thị trấn Cái Nhum bắt giữ.
Qua làm việc với anh La Văn Việt, Cơ quan điều tra tiếp tục thu giữ 02 sợi dây chuyền do bị cáo Đức cầm cố vào ngày 24/8/2014 (ngày bị bắt quả tang) và ngày 19/08/2014 (bị cáo Đức đã thừa nhận cùng đồng bọn cầm cố trước đó).
Ngày 26/08/2014, cơ quan điều tra Công an huyện Mang Thít đã ra quyết định trưng cầu Công ty cổ phần vàng bạc đá quý Phú Nhuận chi nhánh PNJ Cần Thơ kiểm tra tuổi vàng của 03 sợi dây chuyền của bị cáo Đức mà Công an thu giữ được (gồm: 01 sợi dây chuyền thu giữ trong tíu xách của bị cáo Đức lúc bị bắt quả tang, 01 sợi dây chuyền bị cáo Đức cầm cho anh Việt vào ngày 19/08/2014 và 01 sợi dây chuyền bị cáo Đức cầm cho anh Việt ngày 24/8/2014), kết quả: 03 sợi dây chuyền này đều có chất liệu là bạc (ký hiệu hóa học là Ag) phuủ lớp xi vàng 24K.
Tại bản kết luận giám định số 18 ngày 28/8/2014 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Mang Thít xác định giá thị trường ngày 19/8/2014 và ngày 24/08/2014 kim loại Bạc (Ag) có giá 800.000 đ/lượng. Mỗi sợi dây chuyền có giá 800.000 đồng.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Đức và bị cáo Bình thừa nhận hết hành vi phạm tội của mình như trên. Các đối tượng Chiến, Phu, Hiếu hiện chưa xác định rõ được lai lịch nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, sẽ xử lý sau.
Bản cáo trạng số 35/KSĐT ngày 10/11/2014 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít truy tố đối với Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Minh Đức theo khoản 1 Điều 139 BLHS về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Bản án sơ thẩm số 41/2014/HSST ngày 27/11/2014 của TAND huyện Mang Thít áp dụng: Đối với Nguyễn Minh Đức: khoản 1 Điều 139, Điều 18, Điều 20, điểm p, khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 53 BLHS, xử phạt Nguyễn Minh Đức 01 năm tù.
Đối với Nguyễn Thanh Bình: khoản 1 Điều 139, Điều 18, Điều 20, điểm g, p, khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 53 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Bình 07 tháng tù.
Ngày 01/12/2014, bị cáo Nguyễn Minh Đức và bị cáo Nguyễn Thanh Bình có đơn kháng cáo. Nội dung: Xin giảm án. Đến ngày 12/12/2014 bị cáo Đức xin rút lại toàn bộ đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 03/02/2015, bị cáo Nguyễn Thanh Bình cũng xin rút toàn bộ nội dung đơn kháng cáo. Căn cứ vào khoản 2 Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với vụ án, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm: Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm đối với vụ án nêu trên nhận thấy:
Xét thấy trong vụ án này việc truy tố và xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thanh Bình theo định khung tại khoản 1 Điều 139 BLHS là chưa chính xác và chưa đúng theo quy định của pháp luật. Bởi:
Xét về lý lịch và nhân thân bị cáo Nguyễn Thanh Bình đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, cụ thể như sau:
Ngày 19/11/2009, bị cáo Nguyễn Thanh Bình đã cùng đồng bọn “trộm cắp tài sản” (trộm tài sản của chùa Long Phú, Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai với tổng tài sản trộm cắp là 20.150.000 đồng) bị Tòa án nhân dân Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2009 theo Bản án số 123/2010/HSST ngày 30/03/2010 của Tòa án nhân dân Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (BL 95 - 97);ngày 13/01/2012 bị cáo tiếp tục cùng đồng bọn trộm cắp tài sản (tài sản trị giá 3.000.000 đồng) bị bắt quả tang. Ngày 15/05/2012, Tòa án nhân dân Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử áp dụng Điều 18, khoản 1, Điều 138, điểm p, g khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 53; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS (nhận định bị cáo Bình phạm tội với tình tiết tăng nặng là tái phạm), xử phạt bị cáo Bình 07 tháng tù. (Bản án số 262/2012/HSST ngày 15/5/2012 - BL 92 - 94). Bị cáo chấp hành án đến ngày 13/08/2012 mới được ra trại (BL 98, 100).
Căn cứ Điều 63, Điều 64 BLHS thì bị cáo chưa được xóa án tích (03 năm trong trường hợp phat tù đến 03 năm) nhưng đến ngày 24/08/2014 bị cáo Bình tiếp tục cùng bị cáo Nguyễn Minh đức đang thực hiện hành vi lừa đảo chiếm tài sản của anh La Văn Việt thì bị bắt quả tang.
Vì vậy, lần phạm tội lần này bị cáo Nguyễn Thanh Bình phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm - và đây là tình tiết khung tội phạm được quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 139 BLHS - có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Theo quy định của pháp luật thì bị cáo Nguyễn Thanh Bình phải bị truy tố và xét xử theo điểm c, khoản 2 Điều 139 BLHS.
Trong vụ án này, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên đã không phát hiện ra những sai lầm nêu trên để thay đổi Cáo trạng, việc gửi bản án của cấp sơ thẩm cho cấp phúc thẩm không kịp thời dẫn đến thời hạn kháng nghị phúc thẩm theo Điều 234 BLTTHS đã hết. Bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Bình đã rút toàn bộ đơn kháng cáo nên Hội đồng xét xử đã đình chỉ xét xử vụ án để Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long báo cáo kháng nghị giám đốc thẩm./.
TH