CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Rút kinh nghiệm về quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có sai sót bị cấp giám đốc thẩm hủy án

05/05/2015
Cỡ chữ:   Tương phản
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm vi phạm liên quan đến người có quyền và nghĩa vụ liên quan để các đơn vị trong tỉnh rút kinh nghiệm. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:..

 Rút kinh nghiệm về quyết định công nhận sự thỏa thuận

của đương sự có sai sót bị cấp giám đốc thẩm hủy án
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm vi phạm liên quan đến người có quyền và nghĩa vụ liên quan để các đơn vị trong tỉnh rút kinh nghiệm. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
 Nội dung vụ án: Ngày 08/6/2011, giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh thành phố Bắc Giang (sau đây viết tắt là Ngân hàng) với bà Thân Thị Thu Hương ký Hợp đồng tín dụng số 110716091/HĐTD. Theo đó, Ngân hàng cho bà Hương vay 250.000.000 đồng, lãi suất 21%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn. Thời hạn cho vay là 12 tháng kể từ ngày 08/6/2011. Hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại Hợp đồng thế chấp tài sản số 110716091/HĐTC là quyền sử dụng 30,7m2 đất ở, thửa đất số 88, tờ bản đồ số 7, địa chỉ thửa đất: Cụm 5 (nay là tổ dân phố số 5), phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang được UBND thành phố Bắc Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 294501, số vào sổ cấp giấy H 01940 ngày 15/10/2004.
Đến thời hạn, bà Hương không trả được tiền nợ gốc và lãi cho Ngân hàng,  nên ngày 28/8/2013 Ngân hàng đã khởi kiện đến Tòa án đề nghị giải quyết, buộc bà Hương thanh toán tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 26/11/2013 là 373.564.925 đồng, nếu bà Hương không trả được nợ, Ngân hàng đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản mà bà đã thế chấp.
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 26/11/2013 Ngân hàng và bà Hương đã thỏa thuận giải quyết toàn bộ vụ án như sau: Bà Hương đồng ý trả cho Ngân hàng số tiền tính đến ngày 26/11/2013 là 373.564.925 đồng (trong đó: Nợ gốc là 250.000.000 đồng, lãi trong hạn là 96.505.897 đồng, lãi quá hạn là 27.059.028 đồng), trong thời gian 01 tháng kể từ ngày 26/11/2013. Trường hợp đến hết ngày 26/12/2013, bà Hương không thanh toán được hết số tiền nợ gốc thì Ngân hàng sẽ không xem xét bất cứ đề nghị nào của bà Hương và bà Hương phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi theo quy định. Đồng thời Ngân hàng yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên bán phát mại tài sản bảo đảm mà bà đã thế chấp tại Ngân hàng.
 Đến ngày 04/12/2013, Tòa án đã ban hành Quyết định số 07/2013/QĐST-KDTM, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Quyết định trên không bị kháng nghị và đã có hiệu lực pháp luật.
Do bà Hương không thực hiện Quyết định số 07/2013/QĐST-KDTM nêu trên, nên Ngân hàng đã gửi đơn đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang yêu cầu thi hành án. Ngày 22/5/2014, Chi cục thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo yêu cầu số 97/QĐ-CCTHA đối với Quyết định số 07/2013/QĐST-KDTM, nhưng không tổ chức thi hành được do có khiếu nại của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm
Tài sản bà Hương thế chấp cho Ngân hàng là quyền sử dụng đất có Giấy chúng nhận quyền sử dụng đất số AB 294501, do UBNSD thị xã Bắc Giang cấp ngày 15/10/2004 là cấp cho hộ bà Thân Thị Thu Hương và ông Hoàng Văn Hải.
Năm 2003, ông Hải chung sống với bà Hương nhưng không đăng ký kết hôn và có một con chung là Hoàng Lâm Phong (sinh năm 2003). Trước đó, ông đã có vợ là bà Bế Thị Thuần và 2 con là Hoàng Thị Minh Hằng, Hoàng Thị Thu Huyền đều đã trưởng thành. Ngày 06/3/2003, ông Hải và bà Thuần đã được Tòa án nhân dân thị xã Bắc Giang ra Quyết định số 22/QĐ-ST công nhận việc thuận tình ly hôn; nhưng đến ngày 09/10/2006 ông Hải và bà Thuần đã đăng ký kết hôn lại tại UBND phường Lê Lợi, thành phố Bắc Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 60, quyển số 01 năm 2006.
Trong thời gian ông Hải chung sống với bà Hương đã có khối tài sản chung là quyền sử dụng 30,7m2 đất ở tại thửa đất số 88, tờ bản đồ số 7 nêu trên; đến tháng 12/2006, ông Hải chết không để lại di chúc về phân chia tài sản theo pháp luật.
Việc bà Hương thế chấp khối tài sản nêu trên cho Ngân hàng nhưng không có sự tham gia và đồng ý của bà Thuần, chị Hằng, chị Huyền là không đảm bảo quyền lợi của bà Thuần, chị Hằng, chị Huyền; vi phạm Điều 223 Bộ luật dân sự.
Khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án đã không xác minh đầy đủ, không đưa bà Thuần, chị Hằng, chị Huyền vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án còn có vi phạm như sau:
Kiểm tra Biên bản hòa giải ngày 26/11/2013 giữa ông Nguyễn Huy Sơn đại diện cho Ngân hàng và bà Hương đã thỏa thuận: Đến ngày 25/12/2013, bà Hương không trả cho Ngân hàng 373.564.925 đồng, bà đồng ý để Ngân hàng phát mại tài sản của bà tại địa chỉ thôn Đông Giang, xã Xương Giang, thành phố B.G; nhưng không ghi rõ là tài sản nào và không đúng địa chỉ tài sản mà bà Hương đã thế chấp cho Ngân hàng là tại Cụm 5, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang.
Biên bản hòa giải thành đã căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 26/11/2013, nhưng địa chỉ tài sản phát mại đã bị sửa chữa. Đến ngày 12/02/2014, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang ban hành “Thông báo số 08/TB-TA sửa đổi, bổ sung bản án sơ thẩm” với nội dung đính chính như sau: tại trang 12 dòng thứ 2 từ trên xuống, được sửa chữa thành "nhà và đất tại địa chỉ: Cụm 5, phường Trần Nguyên Hãn, thị xã Bắc Giang (nay là thành phố Bắc Giang), tỉnh Bắc Giang". Nhưng Quyết định số 07/2013/QĐST-KDTM nêu trên chỉ có 03 trang, nên Thông báo ghi trang 12 là không chính xác. Nội dung sửa chữa lại không đúng với thỏa thuận của các đương sự tại Biên bản hòa giải và không đúng với địa chỉ tài sản bà Hương đã thế chấp cho Ngân hàng.
Do Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng nêu trên. Vì vậy, Viện trưởng Viện kiểm s¸t nh©n d©n tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm sè 01/Q§KNG§T-KDTM, đề nghị hủy toàn bộ quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 07/2013/QĐST-KDTM ngày 04/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang để xét xử sơ thẩm lại.
Những vấn đề cần lưu ý và rút kinh nghiệm
- Khi nhận được bản án, quyết định giải quyết các vụ án hành chính kinh doanh thương mại, lao động và Thông báo sửa chữa, bổ sung của Tòa án, thì Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ về căn cứ áp dụng thủ tục tố tụng, nội dung mà Tòa án áp dụng để giải quyết vụ án; đồng thời phải đối chiếu nội dung phần sửa chữa, bổ sung với bản án, quyết định ban hành trước đó đã đảm bảo chưa. Nhưng Kiểm sát viên đã không phát hiện được thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm.
- Theo quy định của pháp luật, khi Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì Tòa án không phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu và kiểm sát. Đây cũng là một khó khăn và trở ngại cho việc phát hiện vi phạm, thiếu sót của cơ quan Tòa án.
Để khắc phục những khó khăn, trở ngại đó, Kiểm sát viên cần đề cao trách nhiệm và tăng cường công tác phối hợp với cơ quan Tòa án, với Thẩm phán giải quyết vụ án để khi nhận thấy bản án, quyết định và Thông báo sửa chữa, bổ sung có nội dung không rõ ràng, không đầy đủ hoặc có sự mâu thuẫn; thì đây chính là dấu hiệu của vi phạm, thiếu sót, Kiểm sát viên phải có trách nhiệm báo cáo lãnh đạo đơn vị và tăng cường việc rút hồ sơ vụ án để nghiên cứu, xem xét nhằm phát hiện kịp thời vi phạm của cơ quan Tòa án để ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị.
TH
Tìm kiếm