CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm giải quyết vụ án hành chính

08/04/2020
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông TVH và người bị kiện là Chi cục thuế thành phố X. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm về việc áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện thông báo thuế”

 

Thông qua kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính giữa người khởi kiện ông TVH và người bị kiện Chi cục thuế thành phố X. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm số 19/TB-VC2-V3 về việc áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện thông báo thuế”; cụ thể như sau:

1. Tóm tắt nội dung vụ án

Năm 1984, ông TVH được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp 01 lô đất toạ lạc tại tổ dân phố 5, phường T, thành phố X theo nội dung Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ có diện tích 400m2. Tuy nhiên, diện tích thực tế là 681,3m2 (nay thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79).

Ngày 21/02/2017, ông nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với diện tích đất nói trên. Đến ngày 16/3/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) thành phố X có Công văn đề nghị UBND phường T xác định nguồn gốc và thời điểm sử dụng. Sau đó, ông nhận được Thông báo số 8498 nộp tiền sử dụng đất của Chi cục Thuế thành phố X có nội dung: Căn cứ vào phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 1702876 VPĐK của Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố X xác định hộ gia đình ông phải nộp 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích 300m2 đất ở là 1.650.000.000 đồng và tiền nộp phí trước bạ là 16.643.000 đồng.

Ngày 09/8/2017, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố X cấp GCNQSDĐ số CI629871, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79, đứng tên hộ ông TVH và bà NTN, đồng thời, có ghi nợ nghĩa vụ tài chính. Ông cho rằng việc Chi cục thuế xác định mức nộp 50% tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình ông là không đúng nên đã khiếu nại lần đầu ngày 14/8/2017. Chi cục Trưởng Chi cục Thuế thành phố X đã ban hành Quyết định về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông.

Do không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại trên, ông khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ Thông báo số 8498 của Chi cục Thuế thành phố X.

2. Quá trình giải quyết vụ án

Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2018/HC-ST ngày 29/5/2018 của Toà án nhân dân thành phố X, tỉnh D:

Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông TVH: Về việc yêu cầu huỷ Thông báo số 8498/TB-CC ngày 26/7/2017 của Chi cục thuế thành phố X đối với thửa đất đã được cấp GCNQSDĐ số CI629871, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79, tại phường T, thành phố X, tỉnh D, do UBND thành phố X cấp ngày 09/8/2017 đứng tên hộ ông TVH, bà NTN.

Bản án phúc thẩm hành chính số 02/2019/HC-PT ngày 28/2/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D tuyên sửa bản án hành chính sơ thẩm số 05/2018/HCST ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân thành phố X theo hướng: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông TVH. Huỷ Thông báo số 8498/TB-CCT của Chi cục Thuế thành phố X đối với thửa đất trên.

Ngày 12/4/2019, Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố X, tỉnh D có đơn đề nghị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D.

Ngày 21/8/2019, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC đối với Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D, đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Huỷ bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung do chưa xem xét, đánh giá và thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh trong vụ án.

Quyết định giám đốc thẩm số 09/2019/HC-GĐT của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên: Chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị số  74/QĐKNGĐT-VKS-HC của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.

3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Theo quy định tại khoản 2 Mục V Nghị định số 201-CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước thì việc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh D cấp đất cho ông TVH theo Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984 là không đúng thẩm quyền.

Hộ gia đình ông TVH được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp Giấy sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984, đến năm 1992 ông đã làm nhà ở ổn định trước ngày 15/10/1993. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% tiền sử dụng đất theo giá đất quy định tại bảng giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Do đó, trường hợp ông TVH phải nộp tiền sử dụng đất bằng 40% đối với diện tích được cấp trong hạn mức theo bảng giá đất tại thời điểm công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Nhưng cấp sơ thẩm cho rằng: Hộ ông TVH làm thủ tục cấp GCNQSDĐ thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp đã được sử dụng đất ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất trong hạn mức giao đất theo giá đất quy định tại Bảng giá đất”, cụ thể: Ông TVH đã làm nhà từ năm 1992 nhưng không sử dụng, đến năm 2003 mới làm nhà cấp 4 để ở, sử dụng ổn định đến nay, theo đó ông TVH thuộc trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 nên thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở theo giá đất quy định tại bảng giá đất của địa phương là chưa chính xác.

Ngược lại, bản án hành chính phúc thẩm lại nhận định: Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984 mà Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp cho hộ ông TVH là một trong những giấy tờ thuộc quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013 cụ thể: “Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính phủ” nên hộ ông TVH thuộc trường hợp sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất để từ đó sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng, chấp nhận đơn khởi kiện của ông TVH là không đúng pháp luật.

Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tỉnh D chưa thu thập, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện nhưng lại có phán quyết trái ngược nhau về cùng một dung là chưa có sự thống nhất về nhận thức trong áp dụng pháp luật về đất đai. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm số 09/2019/HC-GĐT ngày 29/10/2019 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị nghị giám đốc thẩm số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC ngày 21/8/2019 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng theo hướng, huỷ Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D và giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh D để xét xử phúc thẩm lại vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật./.

TL (tổng hợp)

Tìm kiếm