CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản

19/10/2021
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự phúc thẩm, VKSND tỉnh Đ thông báo đến VKS cấp huyện rút kinh nghiệm đối với vụ án: “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản" giữa: Nguyên đơn là bà Vì Thị C và bị đơn là bà Lò Thị H (Lò Thu H), ông Lường Văn L, do Tòa án nhân dân thành phố Đ giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2020/DS-ST ngày 12/5/2020 như sau:

1.  Nội dung vụ án

*Nguyên đơn trình bày:

Do có mối quan hệ quen biết trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2019, bà Vì Thị C có cho gia đình ông Lường Văn L, bà Lò Thị H (Lò Thu H) vay tiền, mỗi lần cho vay hai bên đều lập giấy tờ, đến ngày 28/7/2019 hai bên cùng thống nhất chốt nợ tổng số tiền là 3.589.626.000 đồng, trong đó có: 3.188.942.000 đồng tiền gốc và 400.684.000 đồng tiền lãi. Ngoài ra, còn 2 khoản nợ gồm: Khoản nợ tiền mua 02 con lợn của bà C là: 12.442.000 đồng và khoản tiền mua rượu: 6.500.000 đồng.

*Bị đơn trình bày:

Trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2017, bà H có nhiều lần vay tiền của bà C nhưng đã trả hết. Từ cuối năm 2018 đến đầu năm 2019, bà H vay tiếp bà C tổng số tiền gốc 2.025.000.000 đồng tại các giấy vay, hợp đồng vay sau:

Ngày 05/4/2018 vay 50.000.000 đồng; không thỏa thuận lãi và hạn trả.

Ngày 18/8/2018 vay 750.000.000 đồng; không thỏa thuận lãi và hạn trả.

Ngày 01/7/2018 vay 325.000.000 đồng, lãi suất 2.500 đồng/01 triệu/01 ngày, trả lãi vào 30 hàng tháng, không thỏa thuận hạn trả gốc.

Ngày 28/02/2019 vay 900.000.000 đồng, lãi suất 2.700.000 đồng/01 ngày. Đến ngày 28/7/2019, ông bà L, H và bà C đã lập biên bản chốt nợ, hai bên cùng ký vào biên bản tính đến ngày chốt nợ là 3.589.626.000 đồng (Ba tỷ, năm trăm tám mươi chín triệu, sáu trăm hai mươi sáu nghìn đồng).

Trong đó có 2.025.000.000 đồng tiền gốc và 1.564.626.000 đồng lãi. Mức lãi 180%/ năm là quá cao, nên ông bà L, H không đồng ý trả lãi theo yêu cầu của bà C, mà chỉ đồng ý trả lãi theo quy định của pháp luật.

* Trong vụ án này ông L và bà H có yêu cầu phản tố. Đề nghị đối trừ số tiền 2.000.000.000 đồng góp vốn kinh doanh vào khoản nợ giữa bà H và bà Vì Thị C.

2.  Kết quả giải quyết của Tòa án:

Bản án sơ thẩm số 03/2020/DSTC-ST ngày 12/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đ đã tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vì Thị C về việc buộc ông bà L H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bà C tổng số tiền: 3.589.626.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu đối trừ số tiền 2.000.000.000 đồng vào nghĩa vụ trả nợ bà Vì Thị C của ông Lường Văn L và bà Lò Thị H (Lò Thu H), tuyên bố hợp đồng góp vốn kinh doanh ngày 20/3/2017 giữa bà H, bà C vô hiệu, không đề cập giải quyết về hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

Trong hạn luật định bị đơn bà Lò Thị H (Lò Thu H), ông Lường Văn L kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm nêu trên.

Bản án phúc thẩm số 11/2020/DS-PT ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

3.1. Về tố tụng:

Ngày 05/9/2019, Tòa án nhân dân thành phố Đ thụ lý vụ án đối với vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và ra quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự (Thẩm phán Hà Thị T).

Ngày 23/10/2019, nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, Thẩm phán Hà Thị T ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 53/2019/QĐST-DS.

Ngày 10/12/2019, nguyên đơn khởi kiện lại vụ án. Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm phân công Thẩm phán Hà Thị T tiếp tục giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản.

Như vậy, Thẩm phán Hà Thị T tham gia giải quyết hai lần trong cùng một vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vi phạm Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ngày 20/3/2017, bà C, bà H thực hiện việc ký kết hợp đồng góp vốn kinh doanh đối với Công ty TNHH một thành viên PC có đăng ký doanh nghiệp do bà Vì Thị C là Giám đốc, tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định đúng quan hệ tranh chấp. Như vậy, trong vụ án này còn phát sinh quan hệ tranh chấp về kinh doanh thương mại nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác định quan hệ tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản là chưa đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2019/QĐ- BPKCTT ngày 11/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm khoản 4 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự.

3.2. Về nội dung:

Việc thu thập, đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ, toàn diện, khách quan thể hiện tại biên bản vay nợ giữa bà C và bà H còn có người tên là H kế toán Công ty TNHH PC, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất, xác minh làm rõ, theo bản tự khai của vợ chồng ông bà L, H cung cấp (tại các BL91-94, 270-271) ghi đã trả tiền gốc và lãi cho bà C số tiền 1.100.000.000 đồng có đóng dấu của Công ty TNHH PC (nhận hộ khoản vay riêng từ bà T), nhưng bà C cho rằng chưa trả như vậy là còn mâu thuẫn, cần làm rõ để có căn cứ giải quyết về nội dung này.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu vợ chồng ông L, bà H nộp tiền án phí đối với yêu cầu phản tố (đối trừ 2 tỷ đồng vào hợp đồng góp vốn kinh doanh giữa bà H và bà C) nhưng Bản án sơ thẩm lại tuyên hủy hợp đồng vô hiệu là không đúng theo quy định tại Điều 146, Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn./.

TL (tổng hợp)
Tìm kiếm