Thông qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử theo thủ tục phúc thẩm đối với vụ án hình sự bị VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và TAND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh xét xử tuyên hủy Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để Viện kiểm sát địa phương trong khu vực rút kinh nghiệm. Nội dung, quá trình giải quyết và những vấn đề cần rút kinh nghiệm cụ thể như sau:
1. Nội dung vụ án
Nguyễn Thanh P và Nguyễn Thanh H quan hệ là vợ chồng: Nguyễn Thanh P đứng tên trên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ): (1) Giấy CNQSDĐ số BK689786, địa chỉ thửa đất: số 164, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 10, phường 1, thành phố X, tỉnh BL; (2) Giấy CNQSDĐ số BA 150831, địa chỉ thửa đất: ấp Tân Tạo, thị trấn CH, huyện VL, tỉnh BL; (3) Giấy CNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất số BL 169590, địa chỉ: Số 184 Lê Đại Hành, phường TT, Quận YY, thành phố Z. Tất cả các Giấy CNQSDĐ nêu trên đang được thế chấp vay vốn tại Ngân hàng.
Để có tiền trả cho nhiều người đã vay trước đó, Nguyễn Thanh P nảy sinh ý định làm giả Giấy CNQSDĐ của 03 thửa đất và căn hộ nêu trên để thế chấp, chuyển nhượng hoặc ủy quyền cho người khác để chiếm đoạt tiền của họ. Để thực hiện được hành vi trên, P thuê Châu Thái L làm giả các giấy tờ này, trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2017, P nhiều lần liên hệ thuê Châu Thái L làm giả Giấy CNQSDĐ, với số tiền từ 6.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng/01 giấy. Sau khi có Giấy CNQSDĐ giả, P cùng Nguyễn Thanh H đã ký chuyển nhượng, thế chấp hoặc ủy quyền cho nhiều người bị hại để chiếm đoạt của họ với số tiền tổng cộng là 4.950.000.000 đồng. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Thửa đất số 796, tờ bản đồ 14-2, tọa lạc số 164, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 10, phường 1, thành phố X, tỉnh BL, do Nguyễn Văn T đứng tên trên Giấy CNQSDĐ đã chuyển nhượng cho Nguyễn Thị Mỹ Y, vào năm 2011 Nguyễn Thanh P thuê Châu Thái L làm giả Giấy CNQSDĐ của thửa đất này. Năm 2016, Nguyễn Thanh P có vay của Tô Mỹ N số tiền 400.000.000 đồng, do không có tiền trả, đến ngày 05/10/2016, Nguyễn Thanh P, Phan Ly Đ và Tô Mỹ N thống nhất cho Nguyễn Thanh P viết biên nhận nợ Phan Ly Đ số tiền 500.000.000 đồng và Nguyễn Thanh P đã dùng Giấy CNQSDĐ giả nêu trên thế chấp cho Phan Ly Đ để kéo dài thời gian trả nợ.
Vụ thứ hai: Năm 2012, Nguyễn Thị Mỹ Y chuyển nhượng cho Nguyễn Thanh P thửa đất số 796, tờ bản đồ 14-2; địa chỉ đất: số 164, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 10, phường 1, thành phố X, tỉnh BL, đến ngày 28/11/2012 được UBND thành phố X cấp Giấy CNQSDĐ số BK 689786 cho Nguyễn Thanh P. Sau đó, Nguyễn Thanh H và Nguyễn Thanh P đã thế chấp Giấy CNQSDĐ số BK 689786 cho Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh BL để vay vốn từ ngày 23/12/2016. Do không có tiền trả cho Đào Chí G số tiền 340.000.000 đồng vay trước đó, vào khoảng đầu năm 2017, P thuê Châu Thái L làm giả Giấy CNQSDĐ của thửa đất này. Đến ngày 25/8/2017, Nguyễn Thanh P và Nguyễn Thanh H cùng với Đào Chí G đến Phòng công chứng số 1, tỉnh BL ký Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên với số tiền 1.000.000.000 đồng.
Vụ thứ ba: Giấy CNQSDĐ số BL 169590 của căn hộ 1206A, số 184 Lê Đại Hành, phường TT, quận YY, thành phố Z, được cấp cho Nguyễn Thanh P. Vào ngày 28/6/2017, tại Văn phòng công chứng số 2 thành phố Z, Nguyễn Thanh P và Nguyễn Thanh H đã ký Hợp đồng chuyển nhượng căn hộ này cho Đặng Nguyên K và Vũ Thị N. Vào đầu năm 2017, P thuê L làm giả Giấy CNQSDĐ số BL 169590 của căn hộ nêu trên. Sau đó, P thỏa thuận chuyển nhượng căn hộ này cho Nguyễn Thị Hồng D; ngày 29/7/2017, Nguyễn Thanh H và Nguyễn Thanh P cùng với Nguyễn Thị Hồng D đến Phòng công chứng số 1, tỉnh BL ký Hợp đồng ủy quyền sử dụng cho D, với số tiền 2.600.000.000 đồng.
Vụ thứ tư: Căn hộ số 1206A, số 184 Lê Đại Hành, phường TT, quận YY, thành phố Z đang thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Sài Gòn Công thương chi nhánh BL từ ngày 19/3/2015. Vào khoảng giữa năm 2016, P thuê L làm giả thêm một Giấy CNQSDĐ số BL 169590 của căn hộ này. Sau khi có Giấy chứng nhận giả của căn hộ này, từ khoảng tháng 8/2016, P thế chấp cho Trang Thành Q vay nhiều lần với số tiền 800.000.000 đồng. Do không có tiền trả cho Trang Thành Q, Nguyễn Thanh P thỏa thuận chuyển nhượng cho Trang Thành Q căn hộ này để nhận thêm 260.000.000 đồng. Ngày 12/10/2016, P và Trang Thành Q đến Văn phòng công chứng ký Hợp đồng ủy quyền cho Trang Thành Q với tổng số tiền gốc và lãi 1.350.000.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Thanh P cho Trang Thành Q biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sử dụng nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BL 169590 là giả nên ngày 21/6/2017, Trang Thành Q và Nguyễn Thanh P đến Văn phòng công chứng công chứng hủy bỏ hợp đồng ủy quyền sử dụng căn hộ và yêu cầu Nguyễn Thanh H, Nguyễn Thanh P viết giấy nhận nợ với Trang Thành Q số tiền 1.700.000.000 đồng.
Vụ thứ năm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 150831, tại thửa đất số 1673; địa chỉ: ấp Tân Tạo, thị trấn CH, huyện VL, tỉnh BL đã được Nguyễn Thanh H, Nguyễn Thanh P thế chấp cho Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh BL, từ ngày 31/3/2010. Đầu năm 2017, P thuê Châu Thái L làm giả Giấy CNQSDĐ quyền sử dụng nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BA 150831. Sau đó, Nguyễn Thanh P dùng Giấy CNQSDĐ giả này thỏa thuận chuyển nhượng cho Trương Kiến P; đến ngày 22/12/2016, Nguyễn Thanh H, Nguyễn Thanh P cùng với Trương Kiến P đến Phòng công chứng số 1, tỉnh BL ký Hợp đồng chuyển nhượng cho Trương Kiến P, với số tiền 1.500.000.000 đồng.
Đồng thời, cũng tại Giấy CNQSDĐ số BA 150831; tại thửa đất 1673; địa chỉ đất: ấp Tân Tạo, thị trấn CH, huyện VL, tỉnh BL, tên người sử dụng là Nguyễn Thanh P. Huỳnh Đăng O biết Giấy CNQSDĐ số BA 150831 của thửa đất này, Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thanh H đang thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh BL nhưng đồng ý nhận chuyển nhượng, đến ngày 09/02/2018, sau khi giải chấp và rút Giấy CNQSDĐ số BA 150831, Nguyễn Thanh H, Nguyễn Thanh P cùng với Huỳnh Đăng O đến Văn Phòng công chứng ĐHC ký Hợp đồng chuyển nhượng cho Huỳnh Đăng O, giá hợp đồng là 1.000.000.000 đồng (biên nhận 5.000.000.000 đồng); đến ngày 12/02/2018, Huỳnh Đăng O đến chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện VL làm thủ tục sang tên và biết được Nguyễn Thanh P đã chuyển nhượng thửa đất theo Giấy CNQSDĐ nêu trên cho Trương Kiến P. Kết quả giám định: Giấy CNQSDĐ quyền sử dụng nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BA 150831 chuyển nhượng cho Huỳnh Đăng O là phối giấy thật.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 03/9/2020 của TAND tỉnh BL đã quyết định, tuyên bố:
- Bị cáo Nguyễn Thanh P phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, 38, 55, 58 BLHS năm 2015 xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh P 15 (mười lăm) năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 03 (ba) năm tù về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18 năm tù.
- Bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 38, 55, 58 BLHS năm 2015 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh H 12 (mười hai) năm tù.
- Bị cáo Châu Thái L phạm tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS năm 2015. Xử phạt: bị cáo Châu Thái L 03 (ba) năm tù.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; về trách nhiệm dân sự; về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên bị kháng cáo, kháng nghị như sau:
- Ngày 16/9/2020, bị cáo Nguyễn Thanh P kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo quy định của pháp luật, với nội dung: Đề nghị không tách hành vi sử dụng Giấy CNQSDĐ giả số BA150831 chuyển nhượng cho Trương Kiến P chiếm đoạt số tiền 1,5 tỷ đồng ra để xử lý trong một vụ án khác; xem xét lại số tiền đã chiếm đoạt làm căn cứ buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự; xem xét lại các tình tiết giảm nhẹ.
- Ngày 16/9/2020, bị cáo Nguyễn Thanh H kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo quy định của pháp luật, với nội dung: đề nghị không tách hành vi sử dụng Giấy CNQSDĐ giả số BA150831 chuyển nhượng cho Trương Kiến P chiếm đoạt số tiền 1,5 tỷ đồng ra để xử lý trong một vụ án khác; được đề nghị giám định tình trạng thương tật của bản thân.
- Ngày 17/9/2020, ông Huỳnh Đăng Q (là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo quy định của pháp luật, với nội dung: Đề nghị không tách vụ việc các bị cáo sử dụng Giấy CNQSDĐ giả số BA 150831 chuyển nhượng cho Trương Kiến P chiếm đoạt số tiền 1,5 tỷ đồng ra để xử lý trong một vụ án khác.
- Ngày 15/9/2020, người bị hại Trang Thành Q kháng cáo; ngày 16/9/2020 người bị hại Nguyễn Thị Hồng D kháng cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Nguyễn Thanh H, Nguyễn Thanh P.
- Ngày 02/10/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 50/QĐ/VC3-V1, kháng nghị toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 03/9/2020 của TAND tỉnh BL, đề nghị TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật, với các căn cứ: Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm có dấu hiệu bỏ lọt đồng phạm khác trong vụ án và áp dụng BLHS năm 2015 để xử phạt các bị cáo về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là không chính xác.
Bản án hình sự phúc thẩm số 788/2020/HS-PT ngày 16/12/2020 TAND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh đã quyết định: chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thanh H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh, hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 03/9/2020 của TAND tỉnh BL để điều tra, truy tố, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
3.1. Có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội đối với hành vi Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, theo quy định tại Điều 267 BLHS năm 1999:
Nguyễn Thanh H cùng với Nguyễn Thanh P tham gia trực tiếp ký hợp đồng chuyển nhượng, ủy quyền cho những người bị hại tại Văn phòng công chứng đối với các thửa đất và căn hộ trong vụ thứ hai, thứ ba và thứ năm; H đều biết rõ các tài sản trên vợ chồng bị cáo đã thế chấp hoặc chuyển nhượng cho người khác, mặc dù bị cáo không trực tiếp thuê bị cáo L làm giả các Giấy CNQSDĐ của các tài sản trên nhưng bị cáo biết rõ các giấy tờ này là giả và do bị cáo P thuê người khác làm. Sau đó, H đã cùng bị cáo P sử dụng các Giấy CNQSDĐ giả này để ký hợp đồng chuyển nhượng, ủy quyền cho những người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Do đó, hành vi của bị cáo H đã cấu thành tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, theo quy định tại Điều 267 BLHS năm 1999 (H là đồng phạm cùng với bị cáo L, P về hành vi phạm tội này).
3.2. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm áp dụng Điều 341 BLHS năm 2015 để xét xử các bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là không chính xác và gây bất lợi cho các bị cáo.
Bản án sơ thẩm xác định Châu Thái L là người trực tiếp làm giả các Giấy CNQSDĐ theo yêu cầu của bị cáo P và sau đó bị cáo P, H sử dụng các giấy tờ giả trên để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi làm giả và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị cáo xảy ra trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành, căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội (...các điều luật bổ sung hành vi phạm tội mới, các điều luật quy định một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới; các điều luật quy định hạn chế phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 10 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 00 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết).
BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có hướng dẫn cụ thể đối với tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo điểm c khoản 2 và khoản 3 Điều 267. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho các bị cáo, cần phải áp dụng điểm b khoản 2 Điều 267 BLHS năm 1999 để xét xử bị cáo Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thanh H, Châu Thái L về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (tình tiết định khung phạm tội nhiều lần).
3.3. Đối với số tiền thực tế các bị cáo chiếm đoạt:
Mặc dù các bị cáo sử dụng Giấy chứng nhận giả để thực hiện hành vi chiếm đoạt nhưng theo trình bày của các bị cáo và bị hại thì trong số tiền các bị cáo chiếm đoạt của bị hại, có số tiền trước đó các bị cáo vay của bị hại và có trả lãi nhưng cấp sơ thẩm chưa xem xét trong số tiền vay, lãi suất có đúng quy định theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm hay không? Để từ đó xác định số tiền hợp pháp của bị hại có và bị chiếm đoạt hay không./.