CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm trong việc trực tiếp kiểm sát đột xuất hoạt động thi hành án dân sự

05/07/2022
Cỡ chữ:   Tương phản
Qua trực tiếp kiểm sát đột xuất vụ việc thi hành án dân sự (THADS) tại Cục THADS tỉnh LS, VKSND tối cao (Vụ 11) đã phát hiện một số vi phạm trong việc tổ chức thi hành án và bán đấu giá tài sản thi hành án của Chấp hành viên, Cơ quan THADS và Tổ chức đấu giá tài sản, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người liên quan. VKSND tối cao (Vụ 11) thông báo kết quả trực tiếp kiểm sát đột xuất vụ việc này để rút kinh nghiệm chung trong việc trực tiếp kiểm sát đột xuất hoạt động THADS như sau:

I. Nội dung vụ việc và quá trình tổ chức thi hành án

Căn cứ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 05/2020/QĐST-KDTM ngày 06/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố LS, tỉnh LS, Chi cục THADS thành phố LS đã ban hành Quyết định THA số 810/QĐ-CCTHADS ngày 11/6/2020, về việc Công ty TNHH MTV TKV có trách nhiệm trả cho Ngân hàng VietinBank số tiền 47.184.284.619đ (bốn mươi bảy tỷ một trăm tám mươi bốn triệu hai trăm tám mươi bốn nghìn sáu trăm mười chín đồng); Công ty TNHH MTV TKV tiếp tục phải trả lãi phát sinh đối với số tiền nợ gốc chưa thanh toán kể từ ngày 06/12/2019 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng theo Hợp đồng tín dụng số LN49/01/1611-HĐTDDA/NHCT200-CTTNHHMTVTKV ký kết ngày 16/11/2016.

Ngày 22/6/2020, Cục THADS tỉnh LS ban hành Quyết định số 02/QĐ-CTHADS về việc rút hồ sơ để tổ chức thi hành. Ngày 25/6/2020, Chấp hành viên lập biên bản xác minh điều kiện thi hành án của Công ty TNHH MTV TKV tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh LS, xác định: Công ty có 01 thửa đất số 434, tờ bản đồ số 22, diện tích 1382,4m2 tại địa chỉ: Đường Lý Thường Kiệt, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố LS, tỉnh LS, đang được thế chấp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam.

Ngày 29/6/2020, Chấp hành viên tiến hành lập biên bản xác minh tài sản của Công ty TNHH MTV TKV tại Sở xây dựng tỉnh LS (xác minh công trình trên đất), xác định: “...Theo giấy phép xây dựng số 28/GPXD-SXD ngày 28/10/2016 thì được phép xây dựng... 12 tầng + 01 hầm + 01 tum... Hiện trạng xây dựng là 14 tầng + 01 hầm + 01 tum. Vi phạm so với giấy phép xây dựng là 02 tầng...”.

Ngày 08/7/2020, Chấp hành viên tổ chức xác minh tại thực địa (tại trụ sở Công ty TNHH MTV TKV), xác định giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, cụ thể: Diện tích đất 1.382,4m2, thuộc thửa đất 434, tờ bản đồ số 22... Tài sản trên đất là toàn bộ tổ hợp khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí của Công ty. Hiện nay, mới xây xong phần thô, gồm: Móng, khung, cột và tường bao phía ngoài; 03 tầng từ dưới lên đã được ốp gạch vào các khung cột phía trước, từ tầng 04 trở lên mới xây xong phần khung cột; tất cả các tầng đều chưa xây chia phòng. Hiện trạng xây dựng 14 tầng + 01 hầm + 01 tum.

Do có có sự chênh lệch giữa giấy phép và thực tế diện tích xây dựng, ngày 13/7/2020, Cục THADS tỉnh LS ban hành đồng thời 03 văn bản số 553, số 554, số 555/CTHA, gửi Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Xây dựng, Văn phòng đăng ký đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh LS để yêu cầu cung cấp thông tin về tài sản thi hành án của Công ty TNHH MTV TKV.

Ngày 13/8/2020, Chấp hành viên ban hành Quyết định số 09-CTHADS về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nêu trên của Công ty TNHH MTV TKV. Ngày 04/9/2020, Chấp hành viên tiếp tục lập biên bản xác minh thực địa, kiểm tra khu nhà xây dở của Công ty TNHH MTV TKV bao gồm 16 tầng, 01 tầng hầm, 01 tum, bên trong có một số vật dụng (phát sinh thêm 02 tầng mới so với lần xác minh trước đó).

Ngày 09/9/2020, Chấp hành viên tổ chức kê biên tài sản, gồm: 01 thửa đất số 434, diện tích sử dụng 1.382,4m2, đất thương mại dịch vụ, thời hạn sử dụng lâu dài theo GCNQSDD CĐ188031, vào sổ cấp GCN: CT03482 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh LS cấp ngày 27/7/2016 thuộc sở hữu, sử dụng của Công ty TNHH MTV TKV; vật kiến trúc gồm: Công trình xây dựng 01 tầng hầm + 16 tầng nổi + 01 tum, khung bê tông cốt thép chịu lực, tường gạch chỉ, chưa trát vữa, khu hộp kỹ thuật đã lắp dây điện, ống nước. Tổng diện tích sàn 19.342,4 m2, chiều cao tòa nhà 70,48m (tính từ nền tầng hầm lên đến mái tầng tum). Có bản vẽ kèm theo và mô tả chi tiết tài sản lập ngày 09/9/2020, do Công ty TNHH MTV TKV tỉnh LS thực hiện.

Cùng ngày 09/9/2020, Chấp hành viên lập 02 biên bản về việc đương sự không thỏa thuận được về giá, về tổ chức thẩm định giá và về tổ chức bán đấu giá.

Ngày 10/9/2020, Cục THADS tỉnh LS ban hành Công văn số 752/CTHA gửi Sở Xây dựng tỉnh (lần hai), đề nghị cung cấp thông tin về tình trạng và phương án xử lý đối với 02 tầng xây dựng quá phép.

Ngày 14/9/2020, Chấp hành viên thực hiện ký hợp đồng thẩm định giá với Công ty cổ phần giám định và thẩm định tài sản Việt Nam.

Ngày 16/9/2020, Sở Xây dựng tỉnh LS có Công văn số 1256/SXD-QLXL trả lời Cục THADS tỉnh về việc xây dựng không phép của Công ty TNHH MTV TKV, có nội dung: “Việc chủ đầu tư... xây dựng công trình có số tầng là 01 tầng hầm, 16 tầng nổi và 01 tum là không đúng với giấy phép xây dựng số 28... và không phù hợp với giấy phép quy hoạch số 02... là vi phạm quy định về trật tự xây dựng và phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại điểm d khoản 11 điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính phủ, nhà đầu tư (người mua trúng đấu giá) phải đáp ứng và tuân thủ cụ thể các điều kiện theo quy định... có trách nhiệm tuân thủ quy định đối với công việc liên quan đến điều chỉnh giấy phép xây dựng”.

Ngày 21/9/2020, Công ty VAE ban hành Chứng thư thẩm định giá số 9.10 4/2020/CT-VAE, với giá trị tài sản thẩm định là: 124.927.425.000đ (Một trăm hai mươi bốn tỷ chín trăm hai mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng chẵn). Trong đó, giá trị quyền sử dụng đất là 67.129.344.000 đồng; giá trị công trình xây dựng trên đất là 57.798.081.000 đồng.

Ngày 06/10/2020, Chấp hành viên ký Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản số 18/HĐDVĐGTS-THA với Công ty đấu giá Hợp danh H. Quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án, Công ty đấu giá Hợp danh H đã thực hiện việc bán đấu giá tài sản 04 lần không thành (do không có người tham gia đấu giá, trả giá). Đến lần thứ 05 tổ chức bán đấu giá thành, cụ thể:

Ngày 29/3/2021, Công ty đấu giá Hợp danh H ban hành Quy chế bán đấu giá số 13/QC-ĐGHĐVH; ngày 30/3/2021, ban hành Thông báo bán đấu giá số 13/TB-ĐGHDVH, có nội dung: “...Thời hạn, địa điểm bán hồ sơ tham gia đấu giá và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá (trong giờ hành chính): Từ ngày 30/03/2021 đến ngày 15/4/2021 tại Công ty đấu giá Hợp danh H...; Thời gian tổ chức bán đấu giá vào hồi 09 giờ 00 phút ngày 20/4/2021...".

Ngày 20/4/2021, Công ty đấu giá Hợp danh H lập biên bản đấu giá tài sản thành, người trúng đấu giá với giá đã trả là 83.886.000.000 đồng và đã nộp đủ tiền mua tài sản trúng đấu giá. Ngày 04/6/2021, Cục THADS tỉnh ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá với người mua trúng đấu giá.

II. Kết quả trực tiếp kiểm tra đột xuất

Trong quá trình tổ chức thi hành án, VKSND tỉnh LS nhận được nhiều đơn khiếu nại, tố cáo về vi phạm pháp luật trong việc kê biên và bán đấu giá tài sản thi hành án. Trên cơ sở nội dung báo cáo và xem xét các tài liệu do VKSND tỉnh LS cung cấp, xác định có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc tổ chức thi hành án và bán đấu giá tài sản thi hành án, VKSND tối cao (Vụ 11) đã ban hành Quyết định trực tiếp kiểm sát đột xuất đối với vụ việc thi hành án nếu trên. Kết quả kiểm sát đã xác định các vi phạm của Chấp hành viên và Tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án, cụ thể như sau:

1. Vi phạm trong việc xác minh và kê biên tài sản

1.1. Vi phạm của Chấp hành viên trong việc xác minh không đầy đủ, cụ thể khi kê biên, xử lý tài sản thi hành án

Trước khi tiến hành kê biên tài sản, Chấp hành viên tiến hành xác minh tại thực địa (lần đầu), phát hiện có 02 tầng của tòa nhà (tầng thứ 13, 14) xây dựng không đúng giấy phép (đã có ý kiến của Sở Xây dựng tỉnh LS nhưng chưa khắc phục), Chấp hành viên đã không kịp thời ngăn chặn việc đương sự thay đổi hiện trạng tài sản, dẫn đến việc sau đó đương sự tiếp tục xây dựng thêm 02 tầng nổi thứ 15,16. Khi phát hiện vi phạm xây dựng, Chấp hành viên đã lập biên bản ghi nhận nhưng không kịp thời trao đổi với cơ quan chuyên môn nhằm làm rõ tính pháp lý của tài sản để bổ sung vào Kế hoạch cưỡng chế và báo cáo Ban chỉ đạo THADS tỉnh trước khi kê biên

Sau khi kê biên xong, Chấp hành viên mới ban hành Công văn số 752/CTHA ngày 10/9/2020 gửi Sở Xây dựng tỉnh để hỏi về tình trạng pháp lý và phương án xử lý đối với 02 tầng mới phát sinh (tầng thứ 15, 16). Khi chưa có kết quả trả lời của Sở Xây dựng, Chấp hành viên đã tiến hành ký Hợp đồng thẩm định giá tài sản. Khi Sở Xây dựng có Công văn trả lời, trong đó có nêu biện pháp khắc phục hậu quả đối với 02 tầng mới phát sinh này phải tháo dỡ theo quy định tại “điểm d khoản 11 Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017”, nhưng Chấp hành viên vẫn thực hiện ký Hợp đồng để bán đấu giá tài sản.

Như vậy, Chấp hành viên chưa làm rõ tình trạng tài sản nhưng đã tiến hành kê biên, ký hợp đồng thẩm định giá và bán đấu giá tài sản thi hành án. Hành vi của Chấp hành viên nêu trên đã vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên khi chưa kịp thời “...yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh.... tài sản của người phải thi hành án... ” và vi phạm quy định tại điểm b khoản 4 Điều 44 Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014) về xác minh điều kiện thi hành án, phải “...xác minh cụ thể tài sản...”. Các vi phạm trên của Chấp hành viên đã dẫn đến việc báo cáo với Ban Chỉ đạo THADS tỉnh không được đầy đủ và việc lập Kế hoạch cưỡng chế có nội dung không đảm bảo tính chính xác.

1.2. Vi phạm của Chấp hành viên trong việc kê biên tài sản thi hành án

Khi tiến hành tổ chức kê biên tài sản, Chấp hành viên không trực tiếp thực hiện việc kiểm đếm tài sản mà ký Hợp đồng đo vẽ địa chính với Công ty TNHH MTV tư vấn dịch vụ Môi trường tỉnh LS, nhưng hồ sơ năng lực của Công ty và hợp đồng thể hiện Công ty chỉ có chức năng đo, vẽ thành lập bản đồ địa chính mà không có chức năng liệt kê, kiểm đếm tài sản. Theo nội dung hợp đồng là trích đo vẽ cả đất và tài sản trên đất, nhưng Công ty chỉ đo, vẽ đất và các tầng của Tòa nhà, còn lại các tài sản như trần gỗ, hệ thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống thông gió, thông khí, khu hộp kỹ thuật đã lắp dây điện, ống nước... không được mô tả về kích thước, số đo, số lượng cụ thể của các tài sản này ở từng tầng. Tại Biên bản kê biên tài sản ngày 09/9/2020, Chấp hành viên chỉ mô tả chung chung vật kiến trúc trên đất gồm: 01 tầng hầm + 16 tầng nổi và 01 tum, khung bê tông cốt thép chịu lực, tường gạch chỉ, chưa trát vữa, khu hộp kỹ thuật đã lắp dây điện ống nước. Danh sách mô tả hiện trạng tài sản kèm theo Biên bản kê biên không mô tả chi tiết số lượng, kích thước, chủng loại của các tài sản này ở từng tầng; Biên bản kê biên không mô tả diễn biến quá trình kê biên là vi phạm khoản 2 Điều 88 Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Do vậy, Chấp hành viên đã kê biên thiếu một số tài sản có giá trị như % trần tầng 1 đã hoàn thiện ốp gỗ tấm; 04/16 tầng đã gần như hoàn thiện; hệ thống khung thép, đường ống của hệ thống phòng cháy chữa cháy đã lắp đặt (các tài sản này không thể tách rời với công trình đang hoàn thiện và có giá trị không thể tính chung trong tổng giá trị phần thô công trình chưa hoàn thiện).

Ngoài ra, bản vẽ mảnh trích đo địa chính có sự khác nhau giữa kích thước xây dựng tại tầng 1 với kích thước thửa đất, nhưng Chấp hành viên không tiến hành xác minh làm rõ lý do chênh lệch, "phần dư diện tích đất” là thuộc sở hữu của cá nhân hay tổ chức nào mà vẫn tiếp tục ký hợp đồng để thẩm định giá, bán đấu giá tài sản, không thông báo cho Tổ chức đấu giá tài sản và người tham gia đấu giá biết về hiện trạng này của tài sản (xây dựng không đúng với diện tích thửa đất).

Từ vi phạm của Chấp hành viên về việc xác minh và tổ chức kê biên tài sản đã dẫn đến kết quả thẩm định giá trị tài sản thi hành án bị sai lệch, không chính xác (thiếu tài sản; không thể hiện rõ chi tiết số lượng, kích thước, chủng loại, tình trạng của một số tài sản trong Chứng thư thẩm định). Do mỗi tài sản có đặc điểm, tính chất khác nhau, có mức hoàn thiện khác nhau và có giá trị khác nhau, nhưng Tổ chức thẩm định giá lại tính bình quân chung theo giá m2 sàn xây dựng, dẫn đến làm giảm giá trị tài sản của người phải thi hành.

Kết thúc cuộc trực tiếp kiểm sát đột xuất, VKSND tối cao (Vụ 11) đã ban hành Kiến nghị riêng, yêu cầu Cục THADS tỉnh LS khắc phục những vi phạm nêu trên.

2. Vi phạm trong việc tổ chức đấu giá tài sản thi hành án

2.1. Vi phạm của Tổ chức đấu giá tài sản thi hành án

Quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án, Công ty đấu giá Hợp danh H có các vi phạm như:

- Không kiểm tra thông tin về quyền được bán tài sản do Chấp hành viên cung cấp để thông báo đầy đủ, chính xác thông tin về tài sản đấu giá, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản năm 2016;

- Không lưu tài liệu, hình ảnh về việc đăng thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản thi hành án, vi phạm quy định tại Điều 54, Điều 57 Luật Đấu giá tài sản năm 2016;

- Không tổ chức cho khách hàng trực tiếp xem tài sản bán đấu giá, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật Đấu giá tài sản năm 2016;

- Ấn định ngày nộp tiền đặt trước không đúng quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật Đấu giá tài sản năm 2016.

Đặc biệt, Công ty đấu giá Hợp danh H đã có vi phạm trong việc ấn định thời hạn bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá. Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật Đấu giá tài sản năm 2016; "Tổ chức đấu giá tài sản bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ hành chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc đấu giá 02 ngày”. Tuy nhiên, quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án, có 04/05 lần Công ty đấu giá hợp danh H đã ấn định thời hạn bán hồ sơ đấu giá và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá không đúng quy định trên, cụ thể là: Lần 2, ấn định thời hạn thiếu 02 ngày; lần 3, ấn định thiếu 02 ngày; lần 4, ấn định thiếu 02 ngày; lần 5, ấn định thiếu 03 ngày.

Vi phạm trong việc bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá tài sản thi hành án nêu trên của Công ty đấu giá Hợp danh H là rất nghiêm trọng, làm hạn chế người đăng ký tham gia đấu giá, ảnh hưởng đến quyền lợi của người phải thi hành án và thuộc trường hợp phải hủy Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản theo quy định tại điểm c khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 (…; thực hiện không đúng quy định về bán hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá, cản trở, hạn chế người tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá) và theo quy định tại khoản 3 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản năm 2016, thì phải hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

2.2. Vi phạm của Chấp hành viên

Quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án, Chấp hành viên đã có các vi phạm như: Chậm ký Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014); không lưu trữ đầy đủ hồ sơ đấu giá theo quy định tại Điều 54 Luật Đấu giá tài sản năm 2016; không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người có tài sản đấu giá theo quy định tại Điều 47 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 nên không kịp thời phát hiện vi phạm nghiêm trọng nêu trên của Công ty đấu giá hợp danh H.

Kết thúc cuộc trực tiếp kiểm sát đột xuất, VKSND tối cao (Vụ 11) đã ban hành Kháng nghị, yêu cầu Cục THADS tỉnh LS chỉ đạo khắc phục vi phạm và thực hiện việc hủy Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản thi hành án, hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật.

Sau khi VKSND tối cao (Vụ 11) ban hành Kháng nghị, ngày 24/5/2022, Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 1515/TCTHADS-GQKNTC thống nhất quan điểm kháng nghị của VKSND tối cao; đồng thời, ban hành Văn bản số 1514/TCTHADS-GQKNTC chỉ đạo Cục THADS tỉnh LS thực hiện Kháng nghị của VKSND tối cao. Ngày 15/6/2022, Cục THADS tỉnh LS đã ban hành Văn bản số 275/CTHADS về việc thực hiện Kháng nghị của VKSND tối cao, hủy bỏ Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án.

III. Những nội dung cần rút kinh nghiệm

Qua trực tiếp kiểm sát đột xuất vụ việc THADS nêu trên tại Cục THADS tỉnh LS, VKSND tối cao (Vụ 11) thông báo để rút kinh nghiệm nghiệp vụ về một số nội dung sau:

1. Viện kiểm sát các cấp khi nhận được thông tin hoặc có căn cứ xác định dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên, Cơ quan THADS và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (thông qua báo cáo của Viện kiểm sát cấp dưới; qua đơn khiếu nại, tố cáo; trực tiếp xác minh...), cần kịp thời cập nhật, kiểm tra, đánh giá, phân loại để thực hiện phương thức kiểm sát cho phù hợp, đảm bảo chất lượng và hiệu quả; trường hợp có căn cứ xác định dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc tổ chức thi hành án đối với những vụ việc cụ thể cần áp dụng phương thức trực tiếp kiểm sát đột xuất.

2. Kiểm sát viên, công chức khi tiến hành trực tiếp kiểm sát tại Cơ quan THADS nói chung, trực tiếp kiểm sát đột xuất nói riêng, cần nghiên cứu kỹ quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tổ chức THADS, pháp luật về thẩm định giá, đấu giá tài sản; các quy định tại Quy chế 810 và Quy định 94 của Ngành.

3. Khi kiểm sát việc cưỡng chế, kê biên tài sản, Kiểm sát viên, công chức được phân công cần nghiên cứu kỹ các tài liệu trong hồ sơ cưỡng chế, kê biên để xác định rõ chủng loại, nguồn gốc, hiện trạng tài sẵn và các thông tin trong hồ sơ đã thể hiện đúng, đầy đủ chưa, từ đó định hướng nội dung cần kiểm sát khi tham gia cưỡng chế, kê biên. Cần lưu ý kiểm sát chặt chẽ việc Chấp hành viên thực hiện kiểm đếm, mô tả chi tiết, cụ thể từng loại tài sản khi tiến hành kê biên theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật THADS, để kịp thời có hướng xử lý trong trường hợp tài sản bị kê biên thiếu hay thừa so với thực tế.

4. Kiểm sát viên, công chức được phân công kiểm sát hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án, cần yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ các hồ sơ, tài liệu liên quan đến quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án để thực hiện việc kiểm sát. Trường hợp cần thiết thì trực tiếp xác minh để xác định vi phạm của Chấp hành viên và Tổ chức đấu giá tài sản. Đặc biệt lưu ý làm rõ các vi phạm là căn cứ xem xét hủy Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản theo quy định tại khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá năm 2016 (trong vụ việc cụ thể nêu trên, Tổ chức đấu giá tài sản vi phạm quy định về bán hồ sơ tham gia đấu giá và tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, làm hạn chế người đăng ký tham gia đấu giá), dẫn đến việc phải hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 72 Luật Đấu giá năm 2016.

Do vậy, khi có căn cứ xác định Tổ chức đấu giá tài sản vi phạm quy định tại khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 thì Viện kiểm sát phải ban hành kháng nghị (trường hợp hết thời hạn kháng nghị thì ban hành kiến nghị), yêu cầu Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người có tài sản, trực tiếp hủy Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản, từ đó huỷ kết quả bán đấu giá tài sản thành theo quy định tại khoản 3 Điều 72 Luật Đấu giá năm 2016 (không thuộc trường hợp đề nghị Tòa án giải quyết).

TL (tổng hợp)
Tìm kiếm