CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp hợp đồng xây lắp công trình

26/10/2018
Cỡ chữ:   Tương phản
Ngày 06/9/2018, TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm vụ kiện “Tranh chấp về hợp đồng xây lắp công trình” giữa nguyên đơn Công ty CP xây dựng giao thông tỉnh T và bị đơn Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam. VKSND cấp cao...

 

Ngày 06/9/2018, TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm vụ kiện “Tranh chấp về hợp đồng xây lắp công trình” giữa nguyên đơn Công ty CP xây dựng giao thông tỉnh T và bị đơn Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Thông báo số 49/TB-VC2-V3 đến VKSND các tỉnh, thành phố nghiên cứu, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại.

Nội dung vụ án

Theo đơn khởi kiện ngày 04/4/2013 và các tài liệu chứng cứ của nguyên đơn, ngày 27/2/2010, Công ty CP xây dựng giao thông tỉnh T ký kết Hợp đồng xây lắp với Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam về xây dựng công trình nhà Hành chính - Sản xuất của Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam. Sau khi hợp đồng được ký kết, Công ty CP xây dựng giao thông tỉnh T đã tiến hành thi công công trình theo đúng quy định.

Tổng cộng có 5 đợt nghiệm thu theo giá trị của hợp đồng và 01 đợt nghiệm thu khối lượng phát sinh. Cụ thể:

- Nghiệm thu từ đợt 1 đến đợt 4 đã được chủ đầu tư ký vào hồ sơ với giá trị nghiệm thu là 8.235.604.000đ (trong đó, đã thành toán 5.400.000đ; chưa thanh toán: 2.835.604.000đ).

- Nghiệm thu đợt 5 (hoàn thành) và đợt khối lượng phát sinh thì Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam chưa ký vào hồ sơ với giá trị nghiệm thu là: 970.875.000đ (trong đó, nghiệm thu đợt 5: 405.976.000đ; khối lượng phát sinh: 564.899.000đ).

Ngày 04/4/2013, Công ty CP Giao thông tỉnh T có đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam thanh toán số tiền 4.206.159.295đ (trong đó, tiền chưa thanh toán theo hợp đồng: 3.806.479.000đ; tiền lãi chậm thanh toán: 399.680.295đ).

Ngày 24/3/2014, phía nguyên đơn có đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu phía bị đơn phải thanh toán tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 9%/năm, tính từ tháng 01/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm với tổng số tiền là 5.014.798.933đ (trong đó, nợ gốc là: 3.806.229.000đ; lãi suất chậm thanh toán tính từ ngày 04/4/2013 đến ngày 13/10/2016 là: 1.208.499.933đ).

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn trình bày: Ngày 27/2/2010, Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam ký kết Hợp đồng xây lắp với Công ty CP Giao thông tỉnh T về xây dựng công trình nhà hành chính - sản xuất của Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam tại cụm công nghiệp làng nghề HS, phường AH, thành phố H. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, phía bị đơn đã thanh toán đúng theo hợp đồng quy định nhưng phía nguyên đơn không đủ năng lực thi công hoàn chỉnh công trình. Trong quá trình giải quyết chấm dứt hợp đồng xây lắp từ tháng 4/2011 đến nay đã hơn 2 năm, hai bên đã tổ chức nhiều lần làm việc nhưng không thống nhất được một số công việc, ảnh hướng đến kế hoạch đầu tư sản xuất của Công ty. Đồng thời, các bên có tiến hành kiểm tra khối lượng và chất lượng công trình. Theo báo cáo tình trạng xây dựng của đơn vị tư vấn giám sát là Công ty CP xây dựng và tư vấn KP, 56 hạng mục không đảm bảo theo thiết kế đã phê duyệt và chất lượng dẫn đến tư vấn giám sát không phê duyệt. Phía bị đơn đã có văn bản yêu cầu sửa chữa, khắc phục nhưng phía nguyên đơn không thực hiện nên phía Công ty CP xây dựng và tư vấn KP không nghiệm thu công trình. Quá trình xây dựng kéo dài gây thiệt hại cho phía bị đơn. Bị đơn phải thuê các công ty khác có năng lực tiếp tục thi công phần dở dang. Căn cứ vào các quy định của hợp đồng, phía bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc phía bị đơn phải thanh toán theo hợp đồng đã ký kết do phía nguyên đơn không đảm bảo tiến độ thi công, chưa bàn giao công trình.

Quá trình giải quyết vụ án

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 19/2016/KDTM-ST ngày 13/10/2016 của TAND thành phố H áp dụng Điều 290, khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự, Điều 306 Luật Thương mại, buộc Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam phải thanh toán cho Công ty CP giao thông tỉnh T số tiền 5.014.798.933đ. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật.

Ngày 27/10/2016, Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam gửi đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 19/2016/KDTM-ST ngày 13/10/2016 của TAND thành phố H.

Ngày 27/10/2016, VKSND thành phố H có Quyết định kháng nghị số 466/QĐ/KNPT-DS đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cấp phúc thẩm giải quyết với các lý do sau:

- Vi phạm tố tụng: Tòa án xác định người tham gia tố tụng không đầy đủ. Tòa án không yêu cầu người phiên dịch tham gia trong quá trình lấy lời khai và tiến hành hòa giải đối với ông Zhang Guo Q. (Trương Quốc C.) có quốc tịch Trung Quốc. Tòa án không xử lý tiền tạm ứng chi phía giám định mà bị đơn đã nộp.

- Vi phạm về nội dung:

+ Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh toán số tiền nợ gốc nhưng không thống nhất. Bản án dựa vào chứng cứ của nguyên đơn cung cấp là biên bản nghiệm thu lần 5, biên bản nghiệm thu phát sinh nhưng biên bản này không ghi rõ ngày tháng, không được bị đơn xác nhận, để từ đó buộc phía bị đơn phải trả tiền gốc và lãi là chưa đủ căn cứ.

+ Quyết định của Bản án sơ thẩm về lãi suất trên số tiền chậm trả là 9%/năm dựa trên ý chí tự nguyện của phía nguyên đơn là chưa đủ căn cứ, thiếu cơ sở.

Tại phiên tòa phúc thẩm, TAND tỉnh T că cứ Điều 284 và Điều 289, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị số 466/QĐ/KNPT-DS ngày 27/10/2016 của VKSND thành phố H do VKSND tỉnh T rút kháng nghị. TAND tỉnh T không chấp nhận kháng cảo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm, áp dụng Điều 290, khoản 2 Điều 305, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự, Điều 306 Luật Thương mại, Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí, buộc Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam phải thanh toán cho Công ty CP xây dựng giao thông tỉnh T số tiền 5.014.798.933đ (trong đó, tiền gốc: 3.806.229.000đ và tiền lãi: 2.835.604.000đ). Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền của các đương sự.

Ngày 27/10/2017, Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam gửi đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

 - Ngày 27/2/2010, Công ty TNHH H Quốc tế Việt Nam (Bên A - sau đây viết tắt là Công ty H) ký với Công ty CP xây dựng giao thông tỉnh T (Bên B - sau đây gọi là Công ty giao thông H) hợp đồng xây lắp. Theo đó, Công ty giao thông H nhận thi công công trình nhà hành chính - sản xuất tại cụm công nghiệp làng nghề HS, phường AH, thành phố H cho Công ty H, với giá trị hợp đồng là 9.250.291.000đ. Thời gian thực hiện hợp đồng 09 tháng (từ ngày 01/3/2010 đến ngày 01/2/2011), kéo dài không quá 2 tháng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã tiến hành ký 4 đợt nghiệm thu giá trị xây lắp công trình với tổng giá trị 8.235.604.000đ (cụ thể: Đợt 1 - Biên bản nghiệm thu thanh toán đợt I ngày 12/4/2010 giá trị nghiệm thu là 1.503.345.000đ; Đợt 2 - Biên bản nghiệm thu thanh toán đợt II ngày 22/6/2010 giá trị nghiệm thu là 2.184.028.000đ; Đợt 3 - Biên bản nghiệm thu thanh toán đợt III ngày 18/8/2010 giá trị nghiệm thu là 2.712.521.000đ; Đợt 4 - Biên bản nghiệm thu đợt thanh toán đợt IV ngày 10/12/2010 giá trị nghiệm thu là 1.835.710.000đ). Hai bên thừa nhận với 4 đợt nghiệm thu này, Công ty H đã thanh toán cho Công ty giao thông H 5.400.000.000đ, còn nợ 2.835.604.000đ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty H thanh toán cho Công ty giao thông H số tiền còn nợ của 4 đợt nghiệm thu nêu trên là 2.835.604.000đ là có căn cứ, hai bên không khiếu nại.

- Xét về giá trị thi công, xây lắp Đợt V và giá trị thi công phát sinh ngoài hợp đồng mà hiện nay hai bên tranh chấp, nhận thấy: Công ty giao thông H trình bày Công ty đã hoàn thành thi công xây lắp Đợt 5 tại thời điểm tháng 01/2011, với giá trị đạt 405.976.000đ, ngoài ra, Công ty còn hoàn thành khối lượng thi công, xây lắp ngoài hợp đồng tại thời điểm tháng 3/2011 đạt giá trị 564.899.000đ nên yêu cầu Công ty H nghiệm thu, thanh toán thêm phần này. Như vậy, Công ty giao thông H yêu cầu Công ty H thanh toán tổng cộng 5.014.798.933đ (gồm giá trị thi công, xây lắp tổng cộng 3.806.479.000đ, trong đó, giá trị còn nợ của 4 đợt đã nghiệm thu là 2.835.604.000đ, giá trị thi công xây lắp Đợt 5 và giá trị thi công xây lắp ngoài hợp đồng là 970.875.000đ; tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 04/4/2013 đến ngày 13/10/2016 là 1.208.499.933đ). Trong khi đó, Công ty H cho rằng tổng giá trị thi công, xây lắp Đợt 5 và phần thi công xây lắp ngoài hợp đồng do Công ty giao thông H thực hiện chỉ đạt 360.000.000đ; các hạng mục thi công xây lắp ngoài hợp đồng chưa có giá thanh toán và các bên chưa ký Biên bản nghiệm thu. Ngoài ra, nhiều hạng mục (Phần xây dựng; điện chiếu sáng; phòng cháy, chữa cháy; hệ thống cung cấp nước và mương thoát nước) thi công dang dở nên Công ty H phải bỏ ra 4.252.346.891đ thuê đơn vị khác thi công hoàn chỉnh (có cung cấp chứng từ thuê Doanh nghiệp tư nhân KK, Doanh nghiệp tư nhân MQ hoàn thành các hạng mục dang dở). Do đó, Công ty H không đồng ý thanh toán theo yêu cầu của Công ty giao thông H.

Tại Bảng báo cáo tình hình xây dựng nhà hành chính - sản xuất, Tư vấn giám sát là Công ty CP tư vấn và xây dựng KP kết luận 56 hạng mục do Công ty giao thông H thi công chưa hoàn thành nên đề nghị Công ty H yêu cầu Công ty giao thông H có trách nhiệm tiếp tục thi công hoàn thành. Tại Công văn số 246/CV-CT ngày 19/8/2011, Công ty giao thông H cũng thừa nhận còn 47 hạng mục thi công có sai sót, chưa được xử lý nên đồng ý Công ty H khấu trừ 154.000.000đ vào giá trị còn phải thanh toán cho Công ty H. Điểm a Điều 3 Hợp đồng quy định: “Nếu khối lượng công việc phát sinh tăng hoặc giảm không có đơn giá ghi trong hợp đồng thì phần khối lượng tăng hoặc giảm được tính theo đơn giá tại thời điểm thi công dựa trên đơn giá của Liên sở Tài chính - Xây dựng T”. Như vậy, Công ty giao thông H thừa nhận thi công có sai sót, chưa hoàn thiện công trình và đồng ý khấu trừ 154.000.000đ vào phần giá trị số tiền Công ty H còn phải thanh toán là phù hợp với kết luận của Tư vấn giám sát. Còn đối với phần giá trị thi công xây lắp ngoài hợp đồng, nếu chưa có đơn giá thanh toán thì lẽ ra, Tòa án cần căn cứ điểm a Điều 3 của Hợp đồng để giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ giá trị thi công đợt V và giá trị thi công phát sinh ngoài hợp đồng là bao nhiêu, chưa tham khảo ý kiến Liên sở Tài chính - Xây dựng tỉnh T về đơn giá. Còn Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Công ty H không cung cấp được chứng cứ và từ bỏ yêu cầu giám định. Từ đó, việcTòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty giao thông H, buộc Công ty H thanh toán 970.875.000đ là chưa đủ cơ sở, trái với đề xuất khấu trừ 154.000.000đ vào số tiền nợ còn phải trả của Công ty giao thông H, không tôn trọng thỏa thuận tự nguyện của hai bên tại điểm a Điều 3 của Hợp đồng.

- Về vấn đề phạt hợp đồng:

Điểm 8.2 của Hợp đồng xây lắp quy định “Bên B vi phạm do không hoàn thành đúng theo tiến độ thi công được duyệt mà không có sự biến động như động đất, chiến tranh hoặc có nguy cơ xảy ra chiến tranh thì bên B sẽ chịu phạt theo các nội dung sau: +Đến ngày 10/2/2011 không bàn giao thì bên A sẽ phạt bên B 3% tổng giá trị hợp đồng; +Đến ngày 10/3/2011 không bàn giao thì bên A sẽ phạt bên B 5% tổng giá trị hợp đồng; +Sau ngày 10/3/2011 đơn vị thi công chưa bàn giao công trình đưa vào sử dụng thì bên A sẽ chấm dứt hợp đồng và không giải quyết thanh toán cho đơn vị thi công... Ngày 07/6/2010, Công ty H gửi Công văn số 22 cho Công ty giao thông H nêu rõ đến nay chưa hoàn thiện phần móng trong khi theo tiến độ ghi trong hợp đồng thì phải hoàn thành tầng 1 và đổ bê tông dầm sàn tầng 2. Tại Biên bản làm việc về giải quyết tiến độ thi công ngày 09/6/2010, Công ty giao thông H thừa nhận thi công chậm tiến độ nên cam kết sẽ bứt phá để hoàn thành đúng tiến độ. Ngày 01/3/2011, Công ty H gửi Thông báo số 03 cho Công ty giao thông H phản ánh tiến độ thi công quá chậm trễ và thực tế hiện trường không trình không có người thi công. Ngày 06/4/2011, Công ty H gửi Thông báo số 08 tuyên bố chấm dứt hợp đồng với Công ty giao thông H. Ngày 10/4/2011, Công ty giao thông H gửi Công ty H Thông báo số 101 thừa nhận Công ty giao thông Huế thi công chậm tiến độ, đề nghị chấm dứt hợp đồng và đề nghị Công ty H nghiệm thu thanh toán các phần việc Công ty giao thông H đã thi công. Nhưng đến ngày 27/8/2011, Công ty giao thông H mới bàn giao hồ sơ thi công cho Công ty H. Ngày 12/8/2013, Công ty H gửi Bảng tổng hợp khối lượng thanh toán đến TAND thành phố H yêu cầu phạt Công ty giao thông H 5% tổng giá trị hợp đồng như cam kết của hai bên tại khoản 8.2 Điều 8 của Hợp đồng xây lắp và Điều 301 Luật Thương mại năm 2005. Như vậy, Công ty giao thông H vi phạm tiến độ thi công, không hoàn thành công trình đúng thời hạn cam kết trong hợp đồng và Công ty H đã có yêu cầu phản tố nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thủ tục phản tố để giải quyết yêu cầu của Công ty H, còn Tòa án cấp phúc thẩm bỏ qua vấn đề này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn.

- Ngày 11/5/2015, TAND thành phố H ban hành Quyết định số 155/2015/QĐTCGĐ trưng cầu Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng Đà Nẵng tiến hành giám định giá trị khối lượng xây lắp mà Công ty giao thông H đã thực hiện. Ngày 16/6/2015, Công ty H đã nộp 10.000.000đ tạm ứng chi phí giám định và ngày 06/7/2015, TAND thành phố H đã chuyển khoản số tiền này cho Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng Đà Nẵng. Tuy nhiên, tại Văn bản số 130/TTKĐ-KHTH ngày 04/12/2015, Trung tâm Kiểm định chất lượng xây dựng Đà Nẵng từ chối thực hiện giám định vì hồ sơ do Công ty H cung cấp thiếu Nhật ký thi công, thiếu Biên bản thỏa thuận giữa Chủ đầu tư và Đơn vị thi công về việc Chủ đầu tư tiếp tục thực hiện một số công việc mà Đơn vị thi công chưa hoàn thành. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xử lý số tiền tạm ứng chi phí giám định này là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty H.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

 

 

Tìm kiếm