CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”

17/06/2019
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy quá trình...

Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm có một số vi phạm cần thông báo để rút kinh nghiệm như sau:

Nội dung và quá trình giải quyết vụ án

Ngày 25/11/2013, bà Lê Thị Kim C khởi kiện tại TAND huyện I, tỉnh G yêu cầu buộc bà Trương Thị K thanh toán cho bà 124.000.000 đồng tiền nợ mua cà phê. Ngày 28/11/2013, Tòa án thụ lý vụ án. Ngày 04/3/2014, TAND huyện I ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 01/2014/QĐST-KDTM với lý do đợi kết quả ủy thác thu thập chứng cứ. Ngày 23/6/2014, TAND huyện I ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 04/2014/QĐST-KDTM có nội dung bà K đồng ý trả cho bà C số tiền 124.000.000 đồng trong thời hạn 02 tháng tính từ ngày 13/6/2014.

Ngày 20/2/2014, bà Hồ Thị H khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông N, bà K trả lại 200 tấn sắn lát với đơn giá hiện tại là 4.000 đồng/kg, thành tiền là 800.000.000 đồng và phạt vi phạm hợp đồng 8% là 64.000.000 đồng, tổng cộng là 864.000.000 đồng. Ngày 24/2/2014, Tòa án thụ lý vụ án. Ngày 26/3/2014, TAND huyện I ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2014/QĐST-KDTM với nội dung H trả nợ ngân hàng thay vợ chồng ông N bà K để giải chấp các tài sản mà ông bà đã thế chấp vay ngân hàng, sau đó, tiến hành chuyển nhượng các tài sản trên cho bà H để trừ nợ.

Ngày 17/11/2014, bà Lê Thị Kim C có đơn tố cáo lãnh đạo TAND huyện I có dấu hiệu tiêu cực và đề nghị làm rõ với lý do vì sao bà khởi kiện bà K yêu cầu thanh toán số tiền mua cà phê được TAND huyện I thụ lý trước; còn bà H khởi kiện vợ chồng ông N bà K sau nhưng lại được giải quyết trước, dẫn đến toàn bộ tài sản của ông N bà K thỏa thuận giao hết cho bà H nên đến khi giải quyết vụ án của bà C thì ông N bà K không còn tài sản để thi hành án.

Ngày 03/10/2017, bà C có đơn đề nghị Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét lại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 02/2014/QĐST-KDTM ngày 26/3/2014 của TAND huyện I, tỉnh G.

Ngày 05/3/2019, Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định kháng nghị số 01/2019/KN-KDTM đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2014/QĐST-KDTM ngày 26/3/2014 của TAND huyện I, tỉnh G; đề nghị Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy một phần Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên đối với phần thỏa thuận về thời hạn và phương thức thanh toán; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện I, tỉnh G để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng nhưng cần phải hủy toàn bộ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên thì mới giải quyết được toàn bộ vụ án.

Quyết định giám đốc thẩm số 04/2019/KDTM-GĐT ngày 26/4/2019 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng: Hủy toàn bộ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2014/QĐST-KDTM ngày 26/3/2014 của TAND huyện I, tỉnh G; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện I, tỉnh G giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Hai vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa mà người khởi kiện là bà Lê Thị Kim C và bà Hồ Thị H khởi kiện cùng bị đơn là bà Trương Thị K, cùng TAND huyện I, tỉnh G giải quyết. Vụ án bà C được thụ lý giải quyết trước (ngày 28/11/2013) bị tạm đình chỉ vì bị đơn – bà K vắng mặt tại địa phương 06 tháng (theo kết quả xác minh của Tòa án), còn vụ án bà H được thụ lý giải quyết sau (ngày 24/2/2014) lại triệu tập được bị đơn – bà K và đã giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2014/QĐST-KDTM ngày 26/3/2014 của TAND huyện I (Quyết định số 02) có hiệu lực thi hành ngay. Hậu quả của việc giải quyết vụ án của bà H tại Quyết định số 02 nói trên làm cho vụ án của bà C (thụ lý trước) khi được giải quyết thì bị đơn ông N bà K không còn tài sản để thi hành án. Như vậy, việc giải quyết hai vụ án nói trên của TAND huyện I gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà C, người có yêu cầu khởi kiện trước.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

 

Tìm kiếm