CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng công chứng vô hiệu”

25/06/2019
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng công chứng vô hiệu” giữa nguyên đơn bà Trần Thị Tuyết M với bị đơn bà...

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng công chứng vô hiệu” giữa nguyên đơn bà Trần Thị Tuyết M với bị đơn bà Nguyễn Thị Hoàng H, bị TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm để VKSND tỉnh, thành phố tham khảo, nghiên cứu.

Nội dung vụ án

Năm 2013, bà Trần Thị Tuyết M khởi kiện bà Nguyễn Thị Hoàng H về vụ án “Đòi tiền”. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2013/DS-ST ngày 24/5/2013 của TAND quận T, thành phố Đ quyết định buộc bà H phải trả cho bà M số tiền 1.990.000.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bà H kháng cáo. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 53/2013/DS-PT ngày 29/7/2013 của TAND thành phố Đ quyết định buộc H trả cho bà M số tiền 2.097.600.000 đồng.

Bà H không tự nguyện thi hành án Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên nên ngày 04/9/2013, Chi cục thi hành án dân sự quận T ban hành Quyết định số 28/QĐ-CCTHA cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà) tại 516 Điện Biên Phủ, phường T, quận T, thành phố Đ thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Nguyễn Thanh Q và bà Nguyễn Thị Hoàng H để thi hành án trả nợ cho bà M.

Tuy nhiên, ngày 24/5/2013, TAND quận T, thành phố Đ xét xử sơ thẩm thì ngày 25/5/2013, bà H và ông Q đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là căn nhà trên cho ông Lê Chiêu P với giá chuyển nhượng là 2.100.000.000 đồng. Hợp đồng chuyển nhượng này được công chứng ngày 25/5/2013 tại Phòng công chứng số 01 thành phố Đ. Do đó, bà M là người được thi hành án đã khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Q, bà H với ông P vô hiệu.

Quá trình giải quyết của Tòa án

Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2015/DSST ngày 24/6/2015, TAND quận T, thành phố Đ quyết định:

“Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Tuyết M về việc tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bên chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị Hoàng H, ông Nguyễn Thành Q với bên nhận chuyển nhượng là ông Lê Chiêu P, được Phòng công chứng số 1 thành phố Đ chứng nhận ngày 25/5/2013, số công chứng 4087 là vô hiệu”.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bà M, bà H, ông P có đơn kháng cáo. Ngày 15/7/2015, bà H có đơn xin rút đơn kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm, bà M, ông P rút toàn bộ kháng cáo. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 67/2015/QĐ-PT ngày 23/9/2015 là có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 260 và Điều 265 BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.

Sau đó, bà Trần Thị Tuyết M có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên gửi TAND tối cao.

Ngày 04/12/2018, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Chánh án TAND tối cao xử: Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho TAND quận T, thành phố Đ xét xử sơ thẩm lại theo quy định pháp luật.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự thì “1. Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn được kê biên để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác…”.

Như vậy, ngày 24/5/2013 là thời điểm Bản án dân sự sơ thẩm quyết định bà H có nghĩa vụ phải trả nợ cho bà M. Tuy nhiên, ngày 25/5/2013 bà H, ông Q lập hợp đồng chuyển nhượng tài sản của mình cho ông P nhưng không sử dụng khoản tiền thu được từ việc bán tài sản nhà đất trên trả nợ cho bà M. Do đó, xác định hợp đồng chuyển nhượng này có mục đích tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, vi phạm quy định tại Thông tư liên tịch nêu trên. Theo quy định tại Điều 128 BLDS năm 2005 thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa vợ chồng bà H, ông Q với ông P vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa vợ chồng bà H ông Q với ông P vi phạm quy định khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 nhưng không xác định Hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật là không đúng.

Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, bà H xác định thực tế không có việc chuyển quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa vợ chồng bà với ông P. Do sợ mất nhà nên vợ chồng bà nhờ ông P đứng tên hộ giấy tờ nhà đất thông qua hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 29/3/2013, ông Q viết “Giấy cam kết”. Bà H xuất trình bản photo “Giấy cam kết” và bà đề nghị sẽ xuất trình bản gốc nếu Tòa án có yêu cầu.

“Giấy cam kết” có nội dung “Bà H, ông Q (Bên B) có nợ ông P (Bên A) số tiền 5.560.000.000 đồng; Bên B nhờ Bên A đứng tên căn nhà số 516 Điện Biên Phủ” trong thời gian đứng tên hộ, Bên B sẽ cố gắng bán căn nhà này để trả nợ cho bên A, khi bên B bán được nhà thì bên B sẽ ra công chứng cho người mua. Trong thời gian đứng tên hộ cho đến khi bên B bán được nhà thì bên A không được bán hoặc sang tên cho người khác”. Giấy cam kết đã được bà H, ông Q và ông P ký xác nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập bản gốc và chưa làm rõ mục đích, nội dung của “Giấy cam kết” nêu trên, có việc ông P thỏa thuận đứng tên nhà đất hộ cho vợ chồng bà H, ông Q hay không? Để xác minh thực tế có việc chuyển nhượng không hay là hợp đồng giả tạo. Trường hợp có căn cứ xác định thực tế không có việc chuyển nhượng thì căn cứ Điều 129 BLDS năm 2005 xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa vợ chồng bà H, ông Q với ông P là vô hiệu và Tòa án phải giải quyết hậu quả của Hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu nếu đương sự có yêu cầu. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ nhận định về hình thức của Hợp đồng chuyển nhượng là đúng quy định, từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M là chưa đủ cơ sở.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

 

Tìm kiếm