Kháng nghị số 09/2010/QĐ- KN ngày 07/7/2010 đối với phần quyết định hình phạt của Bản án HSST số 29/2010/HSST ngày 08/6/2010 của TAND huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đã xét xử bị cáo Hoàng Văn Chiến, dân tộc Tày, sinh năm 1984, trú tại Thôn 3, Minh Quang, xã Minh Hương, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang về tội “Đánh bạc” và tội “Gá bạc”. Bản án áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt Hoàng Văn Chiến 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Lý do kháng nghị: Hành vi phạm tội của Hoàng Văn Chiến là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, sát phạt nhau bằng tiền và tham gia cá cược nhiều ván, bị thua hết tiền nhưng bị cáo không dừng lại mà cầm cố 02 chiếc điện thoại để lấy tiền đánh bạc tiếp. Trong vụ án này, bị cáo sử dụng tiền nhiều nhất vào việc đánh bạc và là con bạc tích cực nhất...
Tin về Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Công tác Kháng nghị các bản án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang
* Kháng nghị số 09/2010/QĐ- KN ngày 07/7/2010 đối với phần quyết định hình phạt của Bản án HSST số 29/2010/HSST ngày 08/6/2010 của TAND huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang đã xét xử bị cáo Hoàng Văn Chiến, dân tộc Tày, sinh năm 1984, trú tại Thôn 3, Minh Quang, xã Minh Hương, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang về tội “Đánh bạc” và tội “Gá bạc”. Bản án áp dụng khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự xử phạt Hoàng Văn Chiến 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Lý do kháng nghị: Hành vi phạm tội của Hoàng Văn Chiến là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, sát phạt nhau bằng tiền và tham gia cá cược nhiều ván, bị thua hết tiền nhưng bị cáo không dừng lại mà cầm cố 02 chiếc điện thoại để lấy tiền đánh bạc tiếp. Trong vụ án này, bị cáo sử dụng tiền nhiều nhất vào việc đánh bạc và là con bạc tích cực nhất. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Bản án xử phạt bị cáo 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là không đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm trong điều kiện hiện nay.
Kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang áp dụngkhoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử tăng hình phạt và xử phạt tù giam đối với bị cáo Hoàng Văn Chiến.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình
* Kháng nghị số 06/KS- KNPT ngày 05/7/2010 đối với Bản án HSST số 24/HSST ngày 21/6/2010 của TAND tỉnh Thái Bình đã xét xử các bị cáo:
- Nguyễn Bá Hoán, sinh năm 1965, trú tại số 33, Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Tiến An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
- Nguyễn Thị Tố, sinh năm 1965, trú tại tổ 3, khu 5, phường Bắc Sơn, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng.
- Nguyễn Bá Luân, sinh năm 1977, trú tại thôn Tăng Mỹ, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại các điểm a, b khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự.
Lý do kháng nghị: Các bị cáo Nguyễn Bá Hoán, Nguyễn Thị Tố và Nguyễn Bá Luân bị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại các điểm a, b khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong vụ án, kết quả thẩm vấn và tranh luận, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại các điểm a, b khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự về các hành vi:
Từ đầu năm 2007 đến khi bị bắt Nguyễn Bá Hoán cùng các đồng phạm đã lừa đảo 255 người trên địa bàn 22 tỉnh, thành phố trong cả nước. Nguyễn Bá Hoán đã lừa đảo 195 người có nhu cầu sang Mỹ lao động, chiếm đoạt 842.100 USD và 3.138.568.000 đồng. Số tiền này Hoán đã trả lại 155.100 USD và 359.900.000 đồng cho người bị hại, chuyển cho Nguyễn Thị Tố 80.200 USD và 356.000.000 đồng, hiện còn chiếm đoạt 606.580 USD và 2.442.668.000 đồng. Tại phiên Toà Hoán khai còn nhận của Luân số tiền 19.000 USD, nâng tổng số USD Hoán chiếm đoạt lên đến 625. 580 USD.
Nguyễn Thị Tố trực tiếp lừa đảo 152 người có nhu cầu sang Mỹ lao động, chiếm đoạt 552.000 USD và 1.346.480.000 đồng. Tốđồng phạm với Hoán và nhận của Hoán 80.200 USD và 356.000.000 đồng, tổng cộng số tiền Tố lừa đảo là 630.200 USD và 1.702.480.000 đồng. Khi người lao động phát hiện bị lừa thì Tốđã trả lại cho một số người được 28.500 USD và 363.200.000 đồng, hiện còn chiếm đoạt 603.700 USD và 1.339.280.000 đồng.
Nguyễn Bá Luân với vai trò đồng phạm giúp sức cho Nguyễn Bá Hoán lừa đảo chiếm đoạt của 18 người lao động số tiền 80.000 USD và 39.400.000 đồng, giúp sức cho Nguyễn Thị Tố lừa đảo chiếm đoạt của 21 người lao động do Luân môi giới với số tiền 45.500 USD. Nguyễn Bá Luân đã trực tiếp lừa đảo thu của 21 người số tiền 101.200 USD, sau đó chuyển cho Nguyễn Bá Hoán 41.000 USD. Khi người lao động đến đòi lại tiền, Luân đã trả cho người lao động 54.350 USD, hiện còn chiếm đoạt 5.850 USD, nhưng đã đưa cho Nguyễn Bá Hoán 19.000 USD.
Căn cứ vào kết quảđiều tra và diễn biến tại phiên toà, Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với các bị cáo: Nguyễn Bá Hoán và Nguyễn Thị Tố mức án tù chung thân, bị cáo Nguyễn Bá Luân mức án từ 10 đến 12 năm tù.
Hồ sơ vụ án thể hiện Nguyễn Bá Luân đã có thoả thuận mức chi phí phải thu để thông báo cho các lao động có nhu cầu đi xuất khẩu lao động. Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Bá Luân và Nguyễn Bá Hoán khai tuy Luân không trực tiếp giao dịch với Nguyễn Nguyễn Thị Tố nhưng Hoán đều thông báo cho Luân biết việc giao dịch với Tố và đã một lần dẫn Luân xuống Hải Phòng. Vì vậy Luân phải chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm trong việc để Nguyễn Thị Tố chiếm đoạt 45.500 USD của 21 người lao động. Do không cân nhắc kỹ các nội dung tình tiết đã được Cơ quan điều tra thu thập được trong hồ sơ vụ án mà chỉ dựa vào lời khai không khách quan của Nguyễn Thị Tố tại phiên toà (Tố không quen biết Luân) để kết luận Nguyễn Bá Luân không có hành vi đồng phạm với Nguyễn Thị Tốđể chiếm đoạt 45.500 USD nói trên là không chính xác và bỏ lọt hành vi phạm tội. Tuy Nguyễn Bá Luân có hai tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, tự nguyện bồi thường thiệt hại nhưng bị cáo Luân nhiều lần chiếm đoạt tài sản có giá trị tới nhiều tỷđồng. Hành vi phạm tội của Luân là đặc biệt nghiêm trọng, Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo 7 năm tù là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. án sơ thẩm xác định Nguyễn Thị Tốđã lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị tương đương hơn 10 tỷđồng, hành vi của bị cáo đã gây ra hậu quảđặc biệt nghiêm trọng, phạm vào điểm a, b khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự. Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình chỉ tuyên phạt Nguyễn Thị Tố 20 năm tù là quá nhẹ, vi phạm quy định tại Nghị quyết 01/2001/NQ- HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của các Điều 139, 193, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại điểm c, mục 2.2 Nghị quyết quy định “Xử phạt chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4 tỷ 500 triệu đồng trở lên”
Kháng nghị đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao áp dụng điểm a, b khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo Nguyễn Bá Luân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với các hành vi như cáo trạng đã truy tố; tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Tố lên mức án chung thân và bị cáo Nguyễn Bá Luân từ 10 đến 12 năm tù.
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên
* Ngày 28/7/2010, VKSND tỉnh Phú Yên ban hành Kháng nghị phúc thẩm số 06/QĐ-KNPT đối với bản án hình sự số 20/2010/HSST ngày 01/7/2010 của TAND huyện Tuy An đã áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 202; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đoàn Văn Chung 01 năm tù về tội vi phạm quy định vềđiều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Cấm bị cáo hành nghề lái xe 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Lý do kháng nghị: Bị cáo Chung điều khiển xe ô tô gây tai nạn nhưng phần hình phạt bổ sung lại cấm bị cáo hành nghề lái xe là không rõ ràng, cụ thể, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo sau khi chấp hành xong hình phạt tù.
Kháng nghị đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm, sửa phần hình phạt bổ sung của bản án theo hướng: cấm bị cáo Đoàn Văn Chung hành nghề lái xe ô tô trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Tổng hợp: Thanh Tâm