1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình:
* Quyết định Kháng nghị số 08/QĐ-KNPT ngày 02/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS - ST ngày 03/6/2010 của TAND huyện Đông Hưng theo thủ tục phúc thẩm, giải quyết vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Kim Duy Phụng- SN 1931, trú tại phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và các đồng bịđơn là anh Tô Hữu Thiêm- sinh năm 1959, trú tại phường Quang Trung, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình, anh Tô Văn Thanh- sinh năm 1962, trú tại xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình .
Lý do kháng nghị:
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS - ST ngày 03/6/2010 của TAND huyện Đông Hưng quyết định:
áp dụng các Điều 674, 675 ,688 và 733, 735 của Bộ luật dân sự, Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 14 của pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án bác yêu cầu của ông Kim Duy Phụng về việc chia thừa kế quyền sử dụng 244,5 m2 đất của cụ Mai Thị Kỷ theo thửa số 29,162 và 163, tờ bản đồ số 01 tại thôn Cổ Hội, xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Và buộc ông Phụng phải nộp 5.729.000đ án phí dân sự sơ thẩm...
Tin về thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Công tác Kháng nghị các bản án dân sự, hành chính- kinh tế - lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình:
* Quyết định Kháng nghị số 08/QĐ-KNPT ngày 02/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS - ST ngày 03/6/2010 của TAND huyện Đông Hưng theo thủ tục phúc thẩm, giải quyết vụ án “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Kim Duy Phụng- SN 1931, trú tại phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và các đồng bịđơn là anh Tô Hữu Thiêm- sinh năm 1959, trú tại phường Quang Trung, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình, anh Tô Văn Thanh- sinh năm 1962, trú tại xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình .
Lý do kháng nghị:
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2010/DS - ST ngày 03/6/2010 của TAND huyện Đông Hưng quyết định:
áp dụng các Điều 674, 675 ,688 và 733, 735 của Bộ luật dân sự, Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 14 của pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án bác yêu cầu của ông Kim Duy Phụng về việc chia thừa kế quyền sử dụng 244,5 m2 đất của cụ Mai Thị Kỷ theo thửa số 29,162 và 163, tờ bản đồ số 01 tại thôn Cổ Hội, xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Và buộc ông Phụng phải nộp 5.729.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Toà án nhân dân huyện Đông Hưng chưa điều tra xác minh làm rõ ông Phụng yêu cầu chia thừa kế diện tích là bao nhiêu, cho nên bác yêu cầu khởi kiện của ông Phụng đối với cả diện tích đất của bà Sơn là không có căn cứ, làm mất quyền khởi kiện của ông Phụng đối với diện tích đất này, vi phạm Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự . Vì vậy đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về thu thập chứng cứ, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Kháng nghịđề nghị Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình huỷ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho TAND huyện Đông Hưng xét xử lại theo thủ tục chung.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An:
* Quyết định Kháng nghị số 976/QĐ/VKS-P5 ngày 05/7/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2010/TCDS - ST ngày 31/5/2010 của TAND huyện Diễn Châu, giải quyết vụ án “Tranh chấp dân sự” giữa nguyên đơn Trương Thị Thanh - SN 1957, trú tại xã Diễn Kỳ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và bịđơn Nguyễn Thanh Nga- sinh năm 1967, trú tại xã Diễn Bích, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An theo thủ tục phúc thẩm.
Lý do kháng nghị: Việc giải quyết vụ án có một số vi phạm nghiêm trọng như:
- Vi phạm thủ tục tố tụng:
+ Toà án cấp sơ thẩm không lập biên bản giao nhận chứng cứ, vi phạm khoản 2, Điều 84 Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Thu thập chứng cứ không đúng theo quy định của BLTTDS. Khoản 1 Điều 83 BLTTDS quy định các tài liệu đọc được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ kiện, đương sự xuất trình bản hợp đồng thuê nhà là bản sao không có công chứng, chứng thực nhưng Toà án vẫn xem xét, vi phạm quy định tại khoản 1, Điều 83 BLTTDS.
- Vi phạm về nội dung:
Không xác định rõ mức độ lỗi của các bên đương sự: Theo lời trình bày của các đương sự thì chị Thanh thoả thuận cho anh Nga thuê ki ốt bán hàng hải sản. Quá trình thực hiện hợp đồng anh Nga không chỉ sử dụng ki ốt mà còn sử dụng toàn bộ khu vực đất phía sau ngoài ki ốt. Bao gồm bếp nấu, bể chứa nước mưa, giếng nước, nhà tắm…Theo chị Thanh, việc này làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình chị. Chị và anh Nga đã thương lượng giải quyết với nhau nhiều lần không được, nhưng chị không có chứng cứ chứng minh việc thương lượng. Chị biết việc anh Nga sử dụng các hạng mục công trình đó nhưng không có biện pháp ngăn cản và cũng không khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, mặc dù sự việc diễn ra trong thời gian dài (26 tháng). Mặt khác, hợp đồng được ký kết giữa anh Nga và chị Thanh đã không thoả thuận các điều khoản cũng nhưđối tượng cho thuê của hợp đồng một cách chặt chẽ dẫn đến việc nhận thức không đúng và xảy ra tranh chấp. Do đó, theo quy định tại Nghị quyết số 03 ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thì có cơ sởđể xác định chị Thanh có lỗi nhiều hơn anh Nga trong việc ký kết các điều khoản của hợp đồng thiếu chặt chẽ nên chị cũng phải tự chịu thiệt hại đối với phần lỗi của mình. Toà án ND huyện Diễn Châu không đánh giá chính xác mức độ lỗi của mỗi bên mà buộc anh Nga bồi thường toàn bộ thiệt hại là gây thiệt hại đến quyềnc và lợi ích hợp pháp của bịđơn.
Kháng nghịđề nghị Toà phúc thẩm, TAND tỉnh Nghệ An xử sửa Bản án sơ thẩm nêu trên đểđảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bịđơn.
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắc Lắc :
* Quyết định Kháng nghị số 408/QĐ/KNGĐT-P5 ngày 29/6/2010 đối với Quyết định số 35/2009/QĐST - DS ngày 23/3/2009 của TAND huyện Krông Búk, giải quyết vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn ông Vũ Khắc Đạm, ở xã Cư Ni, huyện Ea Kar, tỉnh Đắc Lắc và đồng bịđơn ông Nguyễn Văn Phước, bà Huỳnh Thị Cúc Hải, ở xã Cư Pơng, huyện Krông Búk, tỉnh Đắc Lắc theo thủ tục giám đốc thẩm.
Lý do kháng nghị: Ngày 15/11/2008 ông Vũ Khắc Đạm có cho vợ chồng ông Nguyễn văn Phước, bà Huỳnh Thị Cúc Hải vay 25.000kg Cà phê nhân xô, thời hạn trả nợ là 30/12/2008. Bà hải thế chấp cho ông Đạm một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 0117044 do UBND huyện Krông Búk cấp cho ông Nguyễn Văn Phước và bà Huỳnh Thị Cúc Hải. Hợp đồng được lập thành văn bản và quy định rõ “nếu quá hạn ông Phước, bà Hải không trảđược số Cà phê nói trên, thì ông Vũ Khắc Đạm được quyền bán khu đất thế chấp nói trên lấy tiền thanh lý hợp đồng.”, Hợp đồng có xác nhận của UBND xã Cư Ni, huyện Ea Kar và UBND xã Cư Pơng, huyện Krông Búk. Quá hạn ông Đạm đòi nợ nhiều lần không được nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ kiện, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét số Cà phê nợ, không xem xét, xử lý hợp đồng thế chấp tài sản là vi phạm điều 355, 357 BLDS.
Biên bản hòa giải và Biên bản hòa giải thành ngày 13/3/2009 cũng không thể hiện các đương sự có thỏa thuận được hay không thỏa thuận được việc thế chấp tài sản, là vi phạm Điều 186 BLTTDS và Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ kiện chưa triệt để, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, chưa đảm bảo quyền lợi của đương sự.
Kháng nghịđề nghị Tòa giám đốc thẩm TAND tỉnh đắc Lắc xử hủy Quyết định sơ thẩm nêu trên để giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.
* Quyết định Kháng nghị số 440/QĐ/KNGĐT-P5 ngày 07/7/2010 đối với Quyết định số 24/2009/QĐST - DS ngày 29/9/2009 của TAND huyện Krông Búk, giải quyết vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn Ngân hàng công thương Việt Nam. Địa chỉ 108, Trần Hưng Đạo, TP Hà Nội vàđồng bịđơn ông Phan Văn Cường, bàĐào Thị Kim Loan, ở xã Pơng Đrang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắc Lắc theo thủ tục giám đốc thẩm.
Lý do kháng nghị:
Về Tố tụng: Hợp đồng tín dụng số 07.15.0091/HĐTN ngày 06/12/2007 được xác lập giữa Ngân hàng Công Thương Việt Nam ngày, chi nhánh Đắc Lắc với ông Phan Văn Cường, bàĐào Thị Kim Loan là tranh chấp hợp đồng tín dụng, vì ông Cường, bà Loan có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 40E 8000150 do UBND huyện Krông Búk cấp ngày 11/3/2003 (BL 29), vay vốn nhằm mục đích kinh doanh, bán hàng trang trí nội thất nên tranh chấp giữa các bên là tranh chấp kinh doanh thương mại và thuộc thẩm quyền của Tòa kinh tế, TAND tỉnh Đắc Lắc. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật trên là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện là không chính xác, vi phạm vào điểm m khoản 1 Điều 29, khoản 1 Điều 33 vàđiểm a khoản 1 Điều 34 BLTTDS.
Về nội dung: Việc Tòa án cấp sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của đương sự về nghĩa vụ trả nợ mà không xem xét giải quyết xử lý tài sản thế chấp trong hợp đồng là gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Kháng nghịđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 24/2009/QĐST - DS ngày 29/9/2009 của TAND huyện Krông Búk, giao hồ sơ cho Tòa kinh tế, TAND tỉnh Đắc Lắc giải quyết vụ kiện theo đúng thẩm quyền.
4. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
* Quyết định Kháng nghị số 210/QĐ/KNPT-P5 ngày 30/6/2010 đối với Bản án số 143/2010/DSST ngày 28/5/2010 của TAND TP Biên Hòa, giải quyết vụ án “Chia thừa kế” giữa nguyên đơn Trần Quốc Thịnh, SN 1957, trú tại phường Bửu Long, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vàđồng bịđơn Lê Thành Phương, SN 1971, Lê Hùng Phi, SN 1972, cùng trú tại phường Tân Mai, Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, theo thủ tục phúc thẩm.
Lý do kháng nghị: Ngày 28/5/2010, TAND thành phố Biên Hòa xét xử vụ án, giải quyết 02 quan hệ pháp luật, chia tài sản chung của vợ chồng ông Thịnh, bà Chiến và chia di sản của bà Chiến. Như vậy Tòa án cấp sơ thẩm xác định 01 quan hệ pháp luật “Chia thừa kế ” là không đúng pháp luật.
Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần tài sản mà ông Trần Quốc Thịnh được phân chia trong khối tài sản chung của vợ chồng là 3.603.407.500đ và phần di sản thừa kếđược phân chia 98.363.000đ, nhưng Bản án sơ thẩm chỉ tuyên buộc ông Thịnh phải chịu 4.918.000đ là vi phạm khoản 2 Điều 131 BLTTDS, gây thất thoát tài sản nhà nước.
Kháng nghịđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm tuyên sửa Bản án sơ thẩm nêu trên về quan hệ pháp luật vụ án “Chia tài sản chung của vợ chồng và tranh chấp di sản thừa kế” và về vấn đề án phí.
5. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
* Quyết định Kháng nghị số 185/VKS- DS ngày 24/6/2010 đối với Bản án số 28/2010/DSST ngày 08/6/2010 của TAND thành phố Long Xuyên, giải quyết vụ kiện “Hợp đồng mua bán tài sản” giữa đồng nguyên đơn là ông Võ Việt Nhân, SN 1955, bà Lê Thị Thu Ba, SN 1962, trú tại Mỹ Long, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang và bịđơn ông Nguyễn Đức Minh, SN 1966, trú tại xã Hòa Hưng, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang theo thủ tục phúc thẩm.
Lý do kháng nghị: Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2010/DSST ngày 08/6/2010 của TAND thành phố Long Xuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nhân và bà Ba, buộc ông Minh thanh toán 93.131.000đ cho ông Nhân và bà Ba; bác yêu cầu phản tố của ông Minh về việc buộc ông Nhân và bà Ba bồi thường 130.000.000đ, nhưng về phần án phí chỉ buộc ông Minh đóng án phí của số tiền 93.131.000đ, không buộc ông Minh đóng án phí đối với số tiền 130.000.000đ là trái với khoản 5 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, gây thất thu cho ngân sách nhà nước 6.500.000đ.
Kháng nghịđề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử tuyên sửa Bản án sơ thẩm nêu trên, buộc ông Nguyễn Đức Minh phải nộp 6.500.000đ án phí.
Thanh Tâm