Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng qua xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm; Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo...
Viện kiểm sát nhân dân tối cao rút kinh nghiệm vụ án kinh tế
Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng qua xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm. Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Nội dung: Nguyên đơn:Ngân hàng thương mại Cổ phần Phương Nam (viết tắt là Ngân hàng Phương Nam) có trụ sở: Số 28-30-32 Nguyễn Thị Nghĩa, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Quang Hợp. Bị đơn:Ông Nguyễn Thế Cường, sinh 1963, ở Số 1236, đường Trường Sa, phường 14, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh; đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá Huy.
Nôi dung và quá trình giải au vết vu án:
Ngày 30/10/2008, ông Nguyễn Thế Cường có giấy đề nghị Ngân hàng Phương Nam cho ông vay số tiền là 5 tỷ đồng. Ngày 05/12/2008, giữa Ngân hàng Phương Nam và ông Nguyễn Thế Cường ký Hợp đồng tín dụng số 005/12/08TC-20 với nội dung: “Điều 1: Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam (bên A) đồng ý cho ông Nguyễn Thế Cường (hên B) vay số vàng là 300 lượng vàng SJC tương đương với số tiền 4.998.000.000 đồng, tỷ giá vàng 16.660.000 đồng/lượng của ngày 05/12/2008, lãi suất vay trong hạn là l,375%/ tháng, quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, thời hạn vay là 12 tháng kể từ ngày 06/12/2008, thời hạn trả nợ đến ngày 06/12/2009. Điều 2: Bên B vay bằng loại vàng nào thì trả gốc và lãi bằng loại vàng đó. Trường họp khách hàng không có loại vàng đã vay thì có thế mua vàng của bên A theo giá mua bán mà bên A công bố tại thời điếm trả nợ.. Điều 5: Biện pháp bảo đảm: Bên B thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 541/131A đường Huỳnh Văn Bánh, phường 14, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Thế Cường là chủ sớ hữu... “
Ngày 05/12/2008, giữa bên A và bên B có ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 005/12/08TC-20 với nội dung bên B đồng ý thế chấp tài sản và nhà và đất (theo Điều 5 của Hợp đồng tín dụng) để đảm bảo nợ vay là 300 lượng vàng SJC. Thủ tục thế chấp có qua công chứng, chứng thực đúng quy định của pháp luật.
Ngày 06/12/2008, Ban lãnh đạo phòng giao dịch số 20 Ngân hàng Phương Nam ra ''Lệnh giải ngân'' 300 lượng vàng SJC, ông Cường đã nhận 3.000 chỉ vàng SIC tại Ngân hàng theo ''Phiếu giải ngân- vàng''.
Ngày 27/10/2009 và 10/11/2009 ông Cường đã trả 40 chỉ (lãi) cho Ngân hàng. Ngày 27/03/2010, 17/05/2010, ông Cường đã trả ngân hàng 100 chỉ (gốc).
Do ông Cường không tiếp tục trả gốc và lãi nên Ngân hàng Phương Nam đã khởi kiện tại Tòa án, yêu cầu ông Cường thanh toán trả số vàng gốc và lãi theo hợp đồng hai bên đã ký, tính đến ngày 13/09/2010 thì gốc là 2800 chỉ vàng SJC, lãi 594,7 chỉ, lãi phạt là 28,2 chỉ, tổng cộng là 3.422,9 chỉ. Nếu ông Cường không trả được nợ thì phát mãi tài sản thế chấp để trả nợ ngân hàng.
Ông Nguyễn Thế Cường cho rằng ông có ký hợp đồng tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam là vay tiền, không phải vay vàng (ông có nhận 4.898.000.000 đồng, lãi suất 1,375% tháng), ông chỉ đồng ý trả gốc và lãi bằng tiền, không đồng ý trả bằng vàng.
Quá trình giải quyết vụ án:
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 450/2011/KDTM-ST ngày 07/4/2011, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định (tóm tắt): ông Nguyễn thế Cường có Đơn xin vay vốn ngày 30/10/2008 là vay tiền, lãi suất hai bên thỏa thuận 1,375%/tháng là lãi suất vay tiền, không phải là lãi suất vay vàng, lời trình bày của ông Cường là nhận giải ngân bằng tiền (VNĐ) không phải là nhận 300 lượng vàng SJC, khi trả lãi cũng trả bằng tiền mặt, không trả bằng vàng, nên đã quyết định: Buộc ông Nguyễn Thế Cường phải trả 4.898.000.000 đồng tiền vốn và 1286.114.475 đồng tiên lãi phát smh từ Hợp đồng tín dụng số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 cho Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam. Tổng cộng cả vốn và lãi là 6.184.114.475 đồng, trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Bác một phần yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam đòi ông Cường số vàng tương đương 280 lượng vàng SJC. Ngay khi án có hiệu lực pháp luật nếu không có điều kiện thi hành án trả số tiền vốn và lãi cho ngân hàng, thì Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam có quyền yêu cầu Cục thi hành án thành phố Hồ Chí Minh phát mãi tài sản thế chấp là căn nhà và đất số 541/13 đường Huỳnh Văn Bánh, phường 14, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Thế Cường là chủ sở hữu người thế chấp tài sản theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 005/12/08TC-20 ngày 05/12/2008 để thu hồi nợ cho Ngân hàng. Đối với số tiền lãi từ ngày 08/04/2011 trở đi ông Cường tiếp tục trả cho Ngân hàng tính theo lãi suất quá hạn hợp đồng hai bên đã ký kết trên số nợ gốc cho đến khi trả hết nợ. Kể từ ngày có đơn xin thi hành án của nguyên đơn, nếu bị đơn chưa thi hành xong số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất quá hạn trong hợp đồng do hai bên thỏa thuận tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án''. Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo, nghĩa vụ thi hành án cho đương sự.
Ngày 21/4/2011, Ngân hàng Phương Nam có đơn kháng cáo yêu cầu buộc ông Cường phải trả nợ gốc và lãi bằng vàng.
Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 141/2011/KDTM-PT ngày 31/08/2011, Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định như án sơ thẩm và quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ngân hàng Phương Nam có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm.
Ngày 29/02/2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định kháng nghị số 08/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 29/02/2012 đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên, đề nghị hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định (tóm tắt): Họp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp tài sản của ông Cường với Ngân hàng Phương Nam đều thể hiện đối tượng giao dịch là vàng, việc tra lãi cũng bằng vàng hoặc ông Cường trả gốc và lãi theo hình thức: ông Cường có đơn đề nghị mua vàng của Ngân hàng Phương Nam theo số lượng cần thiết, sau đó Ngân hàng bán vàng cho ông Cường (theo tỷ giá tương đương tại thời điểm bán) để ông Cường trả gốc và lãi cho Ngân hàng. Tòa án hai cấp căn cứ vào giấy đề nghị vay vốn của ông Cường (vay 5 tỷ đồng) là không có căn cứ vì đơn đề nghị của ông Cường chưa phải là Hợp đồng giao kết giữa hai bên.
Ngày 22/07/2013, Hội đồng thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm và quyết định chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Từ vụ án trên rút ra kinh nghiệm chung:
- Việc giao nộp chứng cứ của đương sự và việc thu thập chúng cứ của Tòa án:
Đương sự xuất trình''Lệnh giải ngân'' ''Phiếu giải ngân' và các tài liệu thể hiện việc trả gốc, lãi vay bằng vàng đều là bản sao không có công chứng, chứng thực hợp pháp và Tòa án chấp nhận các tài liệu này và không đúng quy định tại khoản 1 Điều 83, khoản 2 Điều 84, Điều 85, Điều 96 Bộ luật TTDS.
Ở trình tự giảm đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã căn cứ khoản 4 Điều 85 Bộ luật TTDS yêu cầu Ngân hàng Phương Nam cung cấp tài liệu và đã làm sáng tỏ việc ông Cường vay vàng và bán lại vàng cho Ngân hàng Phương Nam để lấy bằng tiền (VND).
- Về đánh giá chứng cứ:
Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp (nhà đất) đều thể hiện giao dịch bằng vàng, không phải giao dịch bằng tiền.
Việc giao nhận hiện vật theo hợp đồng tín dụng.
Sau khi ký Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp, cùng ngày 06/12/2009, Ban lãnh đạo Phòng giao địch số 20 - Ngân hàng Phương Nam, đã ra ''Lệnh giải ngân'' 300 lượng vàng SJC, ông Cường đã nhận 300 lượng vàng SJC tại ''Phiếu giải ngân- vàng'' và ''Bảng kê chi tiết'' nhưng vì ông Cường cần tiền mặt nên đã bán lại số lượng 3000 chỉ vàng cho Ngân hàng Phương Nam tại hai ''Phiếu mua vàng'', tỷ giá 2.475.000đ/chỉ và ông Cường đã ký nhận số tiền là 4.950.000.000đ. Toàn bộ các tài liệu này đều có chữ ký, ghi rõ họ tên của ông Cường, phù hợp với lời khai của ông Cường là nhận bằng tiền mặt, không nhận vàng và phù hợp với Điều 2 của Hợp đồng tín dụng ''Bên B vay bằng loại vàng nào thì trả gốc và lãi bằng loại vàng đó. Trường hợp khách hàng không có loại vàng đã vay thì có thể mua vàng của bên A theo giá mua bán mà bên A công bố tại thời điểm trả nợ ... ''
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 141/2011/KDTM-PT ngày 31/8/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định ông Cường vay Ngân hàng Phương Nam là tiền mặt (VND) không phải là vay bằng vàng vật chất và tuyên buộc ông Cường trả cho Ngân hàng cả gốc và lãi số tiền 6.184.114.475 đ là không có căn cứ.
TH