CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Viện kiểm sát Tp. Đà Nẵng tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992

06/03/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
Quá trình hoạt động của VKSND thành phố Đà Nẵng: Từ 1992 - 1996: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng nam Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong giai đoạn này, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, có những đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Bên cạnh việc kiểm sát tốt các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát còn kiểm sát tốt việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của ngành Kiểm sát trong công tác bảo vệ pháp luật, giữ vững pháp chế XHCN...
Viện kiểm sát Tp. Đà Nẵng tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992
 
Việc thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng (Cương lĩnh và các văn kiện của Đảng) liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong Hiến pháp năm 1992.
Quá trình hoạt động của VKSND thành phố Đà Nẵng:
Từ 1992 - 1996: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng nam Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong giai đoạn này, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, có những đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Bên cạnh việc kiểm sát tốt các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát còn kiểm sát tốt việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của ngành Kiểm sát trong công tác bảo vệ pháp luật, giữ vững pháp chế XHCN.
Từ 1997 – 2001: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân dân các quận huyện được được thành lập sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng (năm 1997), quá trình thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật (còn gọi là kiểm sát chung) đối với các cơ quan nhà nước của hai cấp tiếp tục được thực hiện tốt, thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm sát tại nhiều đơn vị trong địa bàn thành phố và đạt được nhiều kết quả cao, thu hồi được nhiều tài sản của nhà nước bị thất thoát và khởi tố một số vụ án tham ô, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tạo được lòng tin đối với nhân dân, nâng cao uy tín của Ngành.
Giai đoạn từ sau năm 2001 đến nay: Ngày 04/4/2002, Quốc hội ban hành Luật số: 34/2002/QH10 về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng VKSND địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, có hệ thống được tổ chức ở 2 cấp, gồm: Viện kiểm sát nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương và 07 Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện. Trên địa bàn thành phố còn có hệ thống các Viện kiểm sát quân sự, gồm: Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu V, Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp quận, huyện và Trưởng các Phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Đối với một số tỉnh, thành trong đó có TP.Đà Nẵng, theo Nghị quyết số: 26/2008/NQ-QH12 ngày 15.11.2008 của Quốc Hội về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Từ ngày 25.4.2009, 06 quận và 01 huyện của thành phố Đà Nẵng bắt đầu thực hiện theo Nghị quyết, theo đó VKSND cấp huyện không có Hội đồng nhân dân ngang cấp để giám sát nên đơn vị thực hiện theo Chỉ thị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giám sát của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc và báo cáo hoạt động về Viện kiểm sát nhân dân thành phố tổng hợp để Viện trưởng báo cáo cho Hội đồng nhân dân thành phố tại các kỳ họp.
Căn cứ các quy định của pháp luật và kế hoạch công tác của ngành, quy chế hoạt động của các Vụ nghiệp vụ của VKSND tối cao, các phòng nghiệp vụ VKSND thành phố và VKSND các quận, huyện xây dựng quy chế hoạt động của đơn vị đảm bảo mọi hoạt động tuân thủ theo đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định.
VKSND thành phố Đà Nẵng có 11 Phòng nghiệp vụ, có Phòng thực hiện nghiệp vụ gộp tương ứng các Vụ nghiệp vụ của VKSND Tối cao. VKSND các quận, huyện tổ chức bộ máy gồm 03 bộ phận bằng các nghiệp vụ gộp liên quan đến chức năng chung. Các Phòng nghiệp vụ của cấp thành phố và bộ phận nghiệp vụ của cấp quận, huyện được Viện trưởng phân công cho các Phó Viện trưởng phụ trách và chịu sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Viện trưởng.
Kết quả thực thi các quy định của Hiến pháp về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với các cơ quan khác trong bộ máy Nhà nước:
VKS hai cấp thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với Cơ quan Cảnh sát điều tra, Toà án trong công tác bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm, xử lý các vụ án điểm, án lưu động nhằm phục vụ tình hình chính trị tại địa phương. Chủ động phối hợp với các cơ quan: Thuế, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường, Hải quan… nhằm cung cấp thông tin về tội phạm và trao đổi nghiệp vụ hỗ trợ lẫn nhau giải quyết tốt nhiệm vụ.
Ngoài ra, trên cơ sở các văn bản pháp luật cũng như chức năng nhiệm vụ của từng ngành, VKS hai cấp đã chủ trì việc ký kết các quy chế phối hợp với các cơ quan hữu quan trong công tác. Cụ thể thời gian qua VKS hai cấp TP Đà Nẵng chủ trì ký kết Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, Quy chế phối hợp công tác với Mặt trận Tổ quốc, Quy chế phối hợp trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, Quy chế phối hợp liên ngành với Trung tâm pháp y trong tố tụng hình sự…
Kết quả thực thi các quy định của Hiến pháp về các chức danh pháp lý của Viện kiểm sát:
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 thì Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng và các quận, huyện vẫn đảm bảo đúng và đầy đủ quy trình và các thủ tục đề nghị VKSND tối cao xem xét bổ nhiệm các chức danh tư pháp như: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Để đảm bảo hoạt động, hai cấp còn bổ nhiệm các các nhân viên hành chính phụ trợ cho công tác như: Chuyên viên, Kế toán, bảo vệ, văn thư, lưu trữ…
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẦN ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG HIẾN PHÁP NĂM 1992
Việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về vị trí, chức năng, nhiệm vụ; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát:
Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1992, một số đề án đề nghị chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công tố trực thuộc Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân chỉ nên tập trung vào chức năng công tố, bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Vì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân trùng lắp với chức năng kiểm tra, thanh tra của các cơ quan hành chính Nhà nước (Chính phủ, các cơ quan thanh tra của Chính phủ, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp), chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.v.v.
Cũng theo quan điểm của Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, cùng với việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện Kiểm sát nhân dân cần sửa đổi Điều 140 Hiến pháp về chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân cho phù hợp.
Ngày 25/12/2001, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 51/2001/NQ sửa đổi, bổ sung 23 điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó có Điều 137 quy định việc giao cho Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và Điều 140 quy định “Viện trưởng các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ngày 02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân mới, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (chức năng kiểm sát chung) của Viện Kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân không còn vai trò “bảo đảm” mà chỉ là “góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Vì vậy, Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát: Vẫn giữ nguyên các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân.
Việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát:
Viện kiểm sát với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nên trong tổ chức hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ phải gắn với Cơ quan điều tra để nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát các hoạt động điều tra và theo hệ thống tổ chức của Toà án để kiểm sát công tác xét xử án hình sự, dân sự - hành chính, kiểm sát giam giữ, cải tạo; kiểm sát thi hành án; kiểm sát việc gải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo về hoạt động tư pháp….
Viện kiểm sát là một cơ quan tư pháp do Quốc hội thành lập, độc lập với các cơ quan hành pháp, trong tiến trình cải cách tư pháp cần phù hợp với mô hình cải cách của hệ thống Tòa án và không theo địa giới hành chính. Tuy nhiên, cần có quy định rõ về mối quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra nhằm tránh trường hợp VKS không theo địa giới hành chính nhưng Cơ quan điều tra lại theo địa giới hành chính, gây khó khăn cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như: kiểm sát thi hành án, tạm giữ tạm giam… và trở ngại trong quan hệ với các cơ quan bổ trợ tư pháp khác.
Vì vậy, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân phải theo một mô hình riêng để phù hợp với các mặt hoạt động đặc thù này.
Việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quan hệ giữa Viện kiểm sát với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị
Hiến pháp năm 1992 không quy định rõ ràng về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và các cơ quan khác, nhưng để thực hiện tốt chức năng chung là bảo vệ pháp luật, thông qua những quy định cụ thể của Hiến pháp đối với từng ngành, sự phối hợp chặt chẽ giữa VKSND với các cơ quan tư pháp và UBND là cần thiết và là yếu tố quan trọng đảm bảo cho kết quả của hoạt động phòng, chống tội phạm và đảm bảo việc thực thi pháp luật thống nhất, đạt hiệu quả, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân.
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại trong công tác phối hợp giải quyết các vụ việc hình sự, dân sự, kinh tế, lao động…đó là sự không đồng bộ trong quá trình giải quyết vụ việc, một phần do trình độ chuyên môn của nhiều cán bộ còn chưa đáp ứng với yêu cầu công việc, mặc khác vì chưa hiểu một cách thống nhất các quy định của pháp luật về phối hợp trong công tác nên khi phối hợp để giải quyết công việc giữa các cơ quan với nhau đôi lúc còn chưa có sự thống nhất, có lúc chồng chéo, có lúc bỏ ngỏ….
Việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh pháp lý của Viện kiểm sát
Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định: “Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương... do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức”, nhưng Pháp lệnh về Kiểm sát viên lại quy định: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao bổ nhiệm Kiểm sát viên cấp tỉnh, cấp huyện theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên cấp tỉnh, cấp huyện. Và Pháp lệnh còn quy định: Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (thường là Phó Bí thư hoặc Uỷ viên Thường vụ của Tỉnh uỷ, Thành uỷ), một trong những thành viên của Hội đồng tuyển chọn này là lãnh đạo Ban Tổ chức chính quyền (nay là Sở Nội vụ)- là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Đây thực sự là một hạn chế đối với ngành Kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện công tác cán bộ.
Về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh pháp lý của Viện kiểm sát: Cần quy định chế độ bổ nhiệm không thời hạn đối với Kiểm sát viên để họ yên tâm công tác. Và có quy định rõ ràng về việc miễn nhiệm khi Kiểm sát viên không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp:
Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo quy định của Hiến pháp 1992 là phù hợp. Việc hoàn thiện quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác có liên quan qua các thời kỳ, đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân so với yêu cầu cải cách tư pháp. Những mặt mạnh trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành phải tiếp tục phát huy, đối với những hạn chế cần xác định rõ nguyên nhân và làm rõ nguyên nhân nào liên quan đến quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Viện kiểm sát thì mới đặt vấn đề bổ sung, sửa đổi pháp luật cho hoàn thiện; đối với những nguyên nhân khác thì phải có giải pháp riêng phù hợp./.
 
Tìm kiếm