Ngày 25/02/2015, Viện trưởng VKSND tỉnh Cà Mau thành lập Ban chỉ đạo thực hiện khâu đột phá với chủ đề “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra nhằm không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm”. Ngày 04/5/2015, Ban chỉ đạo đã ban hành Kế hoạch thực hiện khâu đột phá với yêu cầu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện như sau:...
VKSND tỉnh Cà Mau xác định khâu đột phá trong thực hiện Kế hoạch công tác năm 2015
Ngày 25/02/2015, Viện trưởng VKSND tỉnh Cà Mau thành lập Ban chỉ đạo thực hiện khâu đột phá với chủ đề “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra nhằm không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm”. Ngày 04/5/2015, Ban chỉ đạo đã ban hành Kế hoạch thực hiện khâu đột phá với yêu cầu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện như sau:
Để thực hiện đạt kết quả khâu đột phá năm 2015 “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra nhằm không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm” được xác định phải thực hiện thật tốt trách nhiệm và quyền hạn được quy định tại Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự. Phải thực hành quyền công tố ngay từ khi có tội phạm xảy ra đến khi có quyết định truy tố, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Đó là tổng hợp các quyền năng pháp lý để Viện kiểm sát quyết định việc khởi tố vụ án, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập các bằng chứng buộc tội và truy tìm thủ phạm; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra. Khi có đủ căn cứ kết luận có tội phạm xảy ra và người đã thực hiện việc phạm tội đó thì truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản Cáo trạng; nếu không có đủ căn cứ thì trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra bổ sung hoặc đình chỉ vụ án nhằm đạt được mục đích duy nhất là không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai phạm của người tiến hành tố tụng khi thi hành công vụ. Do đó cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau dây:
Viện kiểm sát phải phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra để nắm chắc tình hình tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, phân loại xử lý và theo dõi, đôn đốc việc xác minh, giải quyết của Cơ quan điều tra, thực hiện đúng các quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự và Thông tư liên tịch số 06 năm 2013 của liên ngành tư pháp Trung ương. Viện kiểm sát hai cấp phải phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra để nắm chắc tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; đồng thời mở sổ ghi chép thông tin tội phạm từ tất cả các nguồn chuyển đến; duy trì việc định kỳ giao ban với Cơ quan điều tra để nắm vững tình hình vi phạm, tội phạm xảy ra trên địa bàn và các biện pháp phối hợp phát hiện, phân loại xử lý. Phân công Kiểm sát viên có năng lực kiểm sát viên có năng lực kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, kịp thời nêu những vấn đề bắt buộc phải làm rõ khi xác minh loại việc đó. Khi phân loại xử lý vụ việc, Viện kiểm sát phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra cùng xem xét, kết luận, thống nhất đường lối xử lý, khởi tố hay không khởi tố; khởi tố tội gì, theo khoản nào của Bộ luật hình sự. Đẩy mạnh tuyên truyền cho người dân hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Từ đó động viên nhân dân tích cực cùng cấp các tố giác, tin báo về tội phạm.
Kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; kiên quyết nhưng thận trọng, không chấp nhận việc khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án không có căn cứ và trái pháp luật; yêu cầu khởi tố bị can khi đã đủ căn cứ phạm tội nhưng kiên quyết từ chối phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật: Sau khi nhận được quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan, Viện kiểm sát phải khẩn trương nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án để khẳng định việc khởi tố vụ án là có căn cứ và đúng pháp luật hay không (nếu như chưa thống nhất với Cơ quan điều tra trước khi khởi tố). Nếu thấy việc khởi tố vụ án rõ ràng là không có căn cứ, trái pháp luật thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra hoặc tự mình ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án (Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự). Nếu quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và đúng pháp luật thì yêu cầu điều tra, phối hợp thu thập chứng cứ nhằm xác định người phạm tội để khởi tố bị can, nhanh chóng phê chuẩn quyết định khởi tố bị can để tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, nhưng kiên quyết không phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can không có căn cứ. Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố vụ án đồng thời với việc khởi tố bị can thì Viện kiểm sát phải khẩn trương nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn; đồng thời đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra thu thập, củng cố chứng cứ, điều tra mở rộng vụ án.
Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp ngăn chặn tạm thời hạn chế quyền tự do, dân chủ của công dân của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam và các biện pháp cưỡng chế: Kiểm sát chặt chẽ các căn cứ thực tế và căn cứ pháp luật của việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. Khẩn trương phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn khi đã có đủ căn cứ và cần thiết để tạo cơ sở thuận lợi cho việc điều tra khám phá vụ án. Kiên quyết không phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ; việc bắt bị can để tạm giam hoặc tạm giam bị can không có căn cứ và trái pháp luật. Khắc phục tình trạng vừa phê chuẩn, sau đó hủy bỏ ngay vì không đủ căn cứ hoặc xét thấy không cần thiết phải tạm giữ, tạm giam. Thận trọng khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế như khám xét, tạm giữ đồ vật, tiền bạc trong quá trình điều tra. Trong mọi trường hợp khám xét có thu giữ tiền, công cụ, phương tiện gây án, vật chứng của vụ án, Viện kiểm sát đều phải yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện đúng trình tự, thủ tục luật định; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp tùy tiện xử lý vật chứng hoặc sử dụng tiền, vật chứng vào mục đích cá nhân, trái pháp luật, gây thiệt hại cho Nhà nước và công dân.
Bám sát các hoạt động điều tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, nhất là khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét và hỏi cung bị can: Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra cần bám sát các hoạt động điều tra, chủ động nắm bắt diễn biến quá trình điều tra để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra sát đúng với những vấn đề cần chứng minh của vụ án, bảm đảm tính khả thi. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên có thể trực tiếp hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, nhân chứng để đảm bảo việc xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát chặt chẽ hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đối với các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người. Đặc biệt phải chú ý yêu cầu thu thập dấu vết, vật chứng, xác định, xác định nguyên nhân và điều kiện gây ra hậu quả; kiểm sát chặt chẽ sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, bảo đảm phản ánh trung thực hiện trường và kết quả khám nghiệm. Sai lầm trong khám nghiệm hiện trường sẽ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng, nhiều trường hợp không thể khắc phục được. Kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh khám xét đối với từng trường hợp; yêu cầu biên bản khám xét ghi đầy đủ diễn biến và chính xác các kết quả khám xét, thái độ của đối tượng và những tài liệu, đồ vật thu giữ. Kiểm sát viên cần nghiên cứu bản cung đầu tiên của bị can xem trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên có giải thích rõ các quyền và nghĩa vụ cho bị can theo quy định hay không. Trường hợp bị can kêu oan, không nhận tội hoặc nhận tội nhưng có nghi ngờ thì Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung. Khi hỏi cung bị can cần thông báo cho Điều tra viên biết để phối hợp và thông báo cho người bào chữa biết để họ tham dự. Kiểm sát viên phải theo dõi chặt chẽ, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, thường xuyên đôn đốc việc kiểm tra; kịp thời đề ra yêu cầu điều tra; yêu cầu Điều tra viên cung cấp những tài liệu cần thiết về vụ án, những tài liệu mới phát sinh trong quá trình điều tra. Để thực hiện tốt Kiểm sát viên cần trao đổi với Điều tra viên về Kế hoạch điều tra, theo dõi tiến độ, đánh giá quá trình, kết quả điều tra; tích cực đôn đốc Cơ quan điều tra nhanh chóng kết thúc điều tra chuyển vụ án sang Viện kiểm sát để truy tố đối với những vụ án lớn, nghiêm trọng, đặc biệt những vụ án được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây bức xúc trong dư luận.
Trước khi kết thúc điều tra phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chủ động phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên rà soát, đánh giá chứng cứ và các thủ tục, biện pháp tố tụng đã áp dụng: Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ kịp thời phát hiện mâu thuẫn, nắm bắt và xử lý kịp thời những khiếu nại, tố cáo của người bị bắt, người bị tạm giữ, của bị can, của người bị hại, ý kiến của người bào chữa về các tình tiết gỡ tội trong vụ án, của dư luận về quá trình khởi tố, điều tra, xử lý vụ án. Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Điều tra viên rà soát, đánh giá chứng cứ tài liệu để kịp thời bổ sung những thiếu sót về thủ tục tố tụng cũng như chứng cứ để tránh tình trạng phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình giải quyết vụ án nếu có những vấn đề vướng mắc mà Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa thống nhất về tội danh, chứng cứ hoặc xem xét trách nhiệm hình sự của những đối tượng liên quan thì phải báo cáo kịp thời để Lãnh đạo hai cơ quan chỉ đạo giải quyết.
Quản lý chặt chẽ việc thụ lý, giải quyết các vụ án, không để án tồn đọng kéo dài hoặc không có quyết định xử lý: Việc kiểm sát hai cấp phải quản lý chặt chẽ án hình sự theo nguyên tắc tập trung thống nhất; phải vào sổ theo dõi chặt chẽ việc thụ lý, giải quyết từng vụ án hình sự, không để án tồn đọng kéo dài hoặc án không có quyết định xử lý; quản lý và kiểm tra chặt chẽ các trường hợp trả tự do, đình chỉ điều tra do không phạm tội và các trường hợp Viện kiểm sát truy tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội. Nếu có sai phạm phải tổ chức chỉ đạo giải quyết dứt điểm, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm.
Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của Kiểm sát viên: Để áp dụng đúng pháp luật hình sự, Kiểm sát viên cần xem xét toàn bộ các mặt của sự việc, phân tích chứng minh đầy đủ các tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự, Mỗi khi đưa ra kết luận về một sự kiện, một tình tiết phải có căn cứ vững chắc; trong trường hợp còn nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu, thì phải có căn cứ vững chắc. Trong trường hợp còn nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu thì phải kiểm tra, xác minh bằng trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự quy định. Đối với từng loại án, Kiểm sát viên cần nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, những đặc điểm hình sự của mỗi tội phạm và tìm hiểu kiến thức các lĩnh vực có liên quan. Nếu nhận thức hời hợt thì dễ làm sai, khó thuyết phục Điều tra viên thực hiện các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, các Kiểm sát viên cần làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do vô ý hay cố ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết năng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Khi đề xuất các quyết định xử lý vụ án, Kiểm sát viên không thể đề xuất từ ý muốn chủ quan hoặc tình cảm cá nhân mà cần xem xét vị trí, vai trò của từng bị can trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng người để cá thể hóa hình phạt nhằm đảm bảo tính công bằng trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Quyết định xử lý vụ án phải có căn cứ và phụ hợp với điều khoản pháp luật áp dụng. Trong trường hợp việc giải thích pháp luật phải có mâu thuẫn thì Kiểm sát viên cần đề xuất áp dụng theo nguyên tắc có lợi đối với bị can. Khi soạn thảo các văn bản áp dụng pháp luật Kiểm sát viên phải chú ý bảo đảm các quyết định tố tụng được ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, có căn cứ thực tế và cơ sở pháp lý, theo đúng thể thức đã quy định. Nội dung văn bản phải rõ ràng , chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể áp dụng, điều luật cần viện dẫn, ngày tháng, năm ban hành văn bản và người có thẩm quyền ký văn bản.
Kiểm sát viên cần tiến hành kiểm tra, giám sát Điều tra viên trong việc thực hiện các văn bản, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát đã được ban hành. Sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên phải chuyển ngay cho Cơ quan điều tra để thi hành, đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quyết định đó có kịp thời hay không, có đúng trình tự, thủ tục do luật định không. Trong quá trình tổ chức thực hiện các quyết định, nếu có vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề mới phải kịp thời phối hợp với Điều tra viên để xử lý, báo cáo Lãnh đạo cho ý kiến giải quyết.
Để thực hiện tốt khâu đột phá năm 2015, Ban chỉ đạo và các tổ thực hiện khâu đột phá của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Cà Mau cần tập trung chỉ đạo thực hiện một số biện pháp sau:
- Quán triệt cho cán bộ, Kiểm sát viên VKS hai cấp phải nhận thức đấy đủ và thực hiện đúng chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và kiểm sát điều tra. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ các Kiểm sát viên phải biết gắn kết hoạt động kiểm sát điều tra với thực hành quyền công tố; phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong hoạt động điều tra nhưng không có nghĩa là cùng với Cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án mà phải có dự bổ trợ cho Cơ quan điều tra nhằm khắc phục kịp thời các sai sót trong hoạt động nghiệp vụ và qua đó có biện pháp tác động, yêu cầu Cơ quan điều tra, Điều tra viên thực hiện đúng pháp luật.
- Phải nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Thực tiễn cho thấy ở đơn vị nào Lãnh đạo quan tâm chỉ đạo thường xuyên thì đơn vị đó hoạt động đạt hiệu quả cao. Do vậy, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành phải sát sao, thường xuyên, liên tục giữa Lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên với Viện kiểm sát cấp dưới, giữa Lãnh đạo Viện với Kiểm sát viên trong đơn vị. Phải có sự phân công, phân việc kịp thời, đúng năng khiếu, sở trường của từng Kiểm sát viên và tạo điều kiện thuận lợi nhất để Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ. Phải thường xuyên kiểm tra Kiểm sát viên trong việc thực hiện Quy chế nghiệp vụ nhằm kịp thời chỉ đạo, giải quyết những khó khăn, vướng mắc và chấn chỉnh, khắc phục sai sót để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của ngành.
- Phải tăng cường trách nhiệm công tố trong giai đoạn điều tra và các giai đoạn tiền khởi tố kể từ khi có dấu hiệu tội phạm hoặc khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm để qua đó nắm chắc được nội dung của từng vụ, việc, nên khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra Kiểm sát viên sẽ chủ động thực hiện các quyền năng pháp lý như phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ của Cơ quan điều tra. Từ đó nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên trong việc quản lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua đó nắm chắc tình hình tội phạm xảy ra để phân loại, xử lý kịp thời đúng theo quy định của pháp luật.
- Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết thực tiễn rút ra những kinh nghiệm hay, những việc làm tốt nhằm phổ biến, nhân rộng, phát huy hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong hoạt động điều tra cho cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp hoạt tập.
- Mở sổ ghi chép đúng cột mục các sổ sách nghiệp vụ của ngành, đảm bảo các thông tin vụ án, quan điểm đề xuất, xử lý vụ án, kết quả xét xử…. phải được ghi chép đầy đủ, rõ ràng nhằm giúp cho việc báo cáo, thống kê được lợi, chính xác.
T.T