CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

VKSND tỉnh Lạng Sơn thông báo rút kinh nghiệm một số vụ ánbị cấp phúc thẩm xử sửa, hủy và đình chỉ giải quyết

11/08/2015
Cỡ chữ:   Tương phản
Qua công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình phúc thẩm trong thời gian qua, VKSND tỉnh Lạng Sơn thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án cụ thể về án bị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy và đình chỉ giải quyết vụ án...

VKSND tỉnh Lạng Sơn thông báo rút kinh nghiệm một số vụ ánbị cấp phúc thẩm xử sửa, hủy và đình chỉ giải quyết

Qua công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình phúc thẩm trong thời gian qua, VKSND tỉnh Lạng Sơn thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án cụ thể về án bị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy và đình chỉ giải quyết vụ án.
1.Vụ án “Tranh chấp lối đi” của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, giữa: Nguyên đơn: Hứa Văn Thi. Bị đơn: Hứa Văn Đô; Lý Thị Xuân. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lý Thị Minh. Cùng địa chỉ: Thôn Yên Hùng, Xã Thiện Hòa, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự số: 01/2013/DS-ST ngày 10/4/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia xử:“Bác yêu cầu của ông Hứa Văn Thi và bà Lý Thị Minh về việc đòi lại phần lối đi hiện nay hộ ông Lý Văn Đô đang sử dụng. Buộc hộ gia đình ông Thi, bà Minh chấm dứt việc tranh chấp, rào ngăn con đường dân sinh tại Pàn Sấn, thôn Yên Hùng, xã Thiện Hòa, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí định giá và quyền kháng cáo của các đương sự. Nguyên đơn ông Hứa Văn Thi kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, không cho ông Đô sử dụng lối đi hiện đang tranh chấp.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự thấy rằng, con đường đang tranh chấp ông Đô và các hộ gia dân ở bên trong đã sử dụng làm đường đi chung từ năm 1959. Năm 1959 khi ông Hứa Văn Giai chia đất vườn cho ông Thi và ông Đô vẫn để lại lối đi này để đi chung, tại cấp sơ thẩm ông Giai cũng có lời khai khẳng định vấn đề này (BL 56).
Đồng thời tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 25/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia và Biên bản xác minh ngày 10/4/2013 của Phòng tài nguyên môi trường huyện Bình Gia xác định: Con đường hiện đang tranh chấp có diện tích 53m2 không nằm trong các thửa đất đã cấp cho hộ ông Hứa Văn Thi và diện tích đất này cũng chưa được cấp cho hộ dân nào quản lý, sử dụng vì đây là đất công cộng do Ủy ban nhân dân xã Thiện Hòa quản lý. Như vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết vụ án này là của Ủy ban nhân dân huyện Bình Gia, Tòa án sơ thẩm đã thụ lý giải quyết vụ án là không đúng quy định.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 44/2013/DS-PT ngày 28/8/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử hủy bản án sơ thẩm số 01/2013/DS-ST ngày 10/4/2013 của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan và đình chỉ giải quyết vụ án.
Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát huyện Bình Gia đã phân công kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, nhưng không phát hiện được vi phạm, Viện kiểm sát tỉnh yêu cầu chuyển hồ sơ để nghiên cứu nhưng Viện kiểm sát huyện chuyển hồ sơ không kịp thời nên hết thời hạn kháng nghị hai cấp, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
2. Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, giữa: Nguyên đơn: Nguyễn Văn Khánh. Bị đơn: Hoàng Xìn Hằng và Phùng Thị Nga.
Cùng địa chỉ: Khu Lao Động, thị trấn Lộc Bình, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2013/DS-ST ngày 24/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, xử: “Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Phùng Thị Nga phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho hộ ông Nguyễn Văn Khánh số tiền là: 266.325đ (Hai trăm sáu mươi sáu nghìn ba trăm hai mươi lăm đồng). Bác yêu cầu nguyên đơn đòi bồi thường 12.747.000đ (Mười hai triệu bảy trăm bốn mươi bảy nghìn đồng)”. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Trong hạn luật định nguyên đơn ông Hoàng Văn Khánh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn kháng nghị theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:Việc xác định thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự xác định nhà số 41 phố Lao động, thị trấn Lộc Bình hiện bà Nga và ông Hằng đang ở nguồn gốc là của ông Hoàng Hỷ Sùng bố ông Hằng. Năm 1979 gia đình ông Sùng đi sơ tán, Nhà nước đã quản lý ngôi nhà trên theo diện vắng chủ và cho người khác ở thuê. Sau khi sơ tán về ông Hằng có đơn xin lại nhà, ngày 09/7/2004 Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ban hành quyết định số 1037/QĐ/UB trả lại nhà cho ông Hằng. Sau đó ông Hằng, bà Nga chuyển về nhà số 41 ở, ngày 09/5/2007 Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ban hành quyết định số 826/QĐ-UBND hủy bỏ quyết định số 1037/QĐ/UB ngày 09/7/2004 giao số nhà 41 cho Ủy ban nhân dân huyện Lộc Bình quản lý. Không đồng ý với quyết định 826/QĐ-UBND nên ông Hằng có đơn khiếu nại. Tại quyết định số 1760/QĐ-UBND ngày 26/9/2007 Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn giải quyết khiếu nại khẳng định quyết định 826/QĐ-UBND là đúng, bác đơn khiếu nại của ông Hằng. Như vậy số nhà 41 ông Hằng, bà Nga hiện đang ở thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân huyện Lộc Bình, nhưng quá trình giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm không đưa Ủy ban nhân dân huyện Lộc Bình vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Chưa xem xét giải quyết hết yêu cầu của đương sự: Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/7/2012 ông Khánh yêu cầu bà Nga phải bồi thường thiệt hại và chi phí khắc phục sửa chữa tường nhà cho gia đình ông, ngoài ra ông Khánh còn yêu cầu gia đình bà Nga tháo dỡ mái ngói Prô xi măng phía đằng sau đã lợp lấn chiếm sang đất nhà ông, nhưng quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chưa tiến hành xác minh làm rõ và giải quyết yêu cầu của ông Khánh buộc bà Nga tháo dỡ mái ngói Prô xi măng đã lợp lấn chiếm sang đất nhà ông, như vậy là chưa giải quyết hết các yêu cầu của đương sự trong cùng vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Đồng thời bản án sơ thẩm chỉ chấp nhận buộc bà Nga bồi thường thiệt hại cho ông Khánh 266,315đ giá trị khối lượng tài sản bị thiệt hại, còn yêu cầu về phần chi phí khắc phục sửa chữa tường nhà của ông Khánh chưa được xem xét, nhưng bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu của ông Khánh đòi bồi thường 12.747.000đ trong đó có cả phần chi phí khắc phục sửa chữa tường nhà là chưa đảm bảo căn cứ, trái với quy định tại điiều 608 Bộ luật dân sự. Mặt khác ông Khánh khởi kiện yêu cầu cả ông Hằng, bà Nga phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nhưng bản án sơ thẩm chỉ buộc bà Nga bồi thường là chưa đầy đủ.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 45/2013/DS-PT ngày 23/8/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng sơn đã xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng sơn, hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/2013/DS-ST ngày 24/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình.
Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát huyện lộc Bình đã phân công kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, nhưng không phát hiện được vi phạm, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
3. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, giữa: Nguyên đơn: Hoàng Thị Bàn; Địa chỉ: Số 29, khu Na Dương Phố 2, thị trấn Na Dương, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Bị đơn: Lộc Văn Phụ; Địa chỉ: Số 27, khu Na Dương, Phố 2, thị rtraans Na Dương, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2013/DS-ST ngày 20/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, xử: “Đối với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản: Chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của bà Hoàng Thị Bàn, buộc ông Lộc Văn Phụ phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Bàn với tổng số tiền làm tròn là 13.543.000đ. Bác một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản mà bà Bàn đưa ra vì không có căn cứ.
Đối với quyền sử dụng đất phần luu không: Chấp nhận một phần yêu cầu về quyền sử dụng đất phần lưu không của bà Hoàng Thị Bàn, buộc ông Phụ phải có trách nhiệm tháo dỡ phần đầu dầm tầng 2 và bức tường đua ra tại tầng 2, tầng 3 do đã lấn chiếm khoảng lưu không của gia đình bà Bàn có chiều rộng 7 cm, cao 4,8m, dài 1m, phần tường đua còn lại của nhà ông Phụ được giữ nguyên, mọi chi phí tháo dỡ ông Phụ phải tự chịu trách nhiệm. Bác một phần yêu cầu về quền sử dụng đất phần khoảng không của bà Hoàng Thị Bàn vì không có căn cứ.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí định giá, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự. Trong hạn luật định nguyên đơn bà Hoàng Thị Bàn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn kháng nghị theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm: Việc xác định người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Gia đình bà Bàn xây dựng trên diện tích đất tại thửa đất số 11, tờ bản đồ số 8A bản đồ địa chính thị trấn Na Dương, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/9/2003 mang tên ông Chu Văn Tỷ (ông Tỷ là chồng bà Bàn đã chết năm 2008), nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ các thành viên trong hộ gia đình ông Tỷ để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại khoản 4 điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đồng thời giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Lộc Văn Phụ nhưng quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Hoàng Thị Thịnh là vợ ông Phụ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng.
Về thu thập chứng cứ và giải quyết yêu cầu của đương sự: Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai bà bàn yêu cầu ông Phụ phải tháo dỡ phần đầu dầm tầng 2, bức tường đua ra tại tầng 2, tầng 3 và phần mái lợp. Quá trình giải quyết vuán Tòa án sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ lần 1 vào ngày 14/12/2012 đã xác định máng thoát nước của nhà ông Phụ lấn sang khoảng không của nhà bà Bàn là 10 cm và lần 2 vào ngày 14/3/2013 đã xác định phần đầu dầm tầng 2, bức tường đua ra tại tầng 2, tầng 3 của nhà ông Phụ lấn sang khoảng không của nhà bà Bàn có chiều rộng 7cm, chiều dài 1m. Còn phần mái lợp của nhà ông Phụ có lấn chiếm khoảng không của nhà bà Bàn hay không chưa được cấp sơ thẩm xem xét làm rõ. Nhưng bản án sơ thẩm lại nhận định “phần máng nước tại tầng 3 và mái nhà ông Phụ có lấn chiếm sẽ bị tháo dỡ khi bà Bàn xây dựng nhà lên cao hơn hiện nay”, như vậy là chưa xem xét giải quyết hết các yêu cầu của đương sự trong cùng vụ án. Đồng thời nhận định như vậy nhưng phần quyết định của bản án sơ thẩm lại không quyết định về phần này là thiếu sót.
Về phần chi phí định giá: Bản án sơ thẩm đã nhận định bà Bàn phải chịu 1/2 số tiền chi phí định giá lần 1 là 500.000đ và toàn bộ số tiền chi phí định giá lần 2 là 400.000đ, nhưng phần quyết định của bản án sơ thẩm lại không quyết định về phần này là không đầy đủ. Đồng thời phần quyết định của bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất phần lưu không là chưa chính xác, vì theo điều 265 Bộ luật dân sự thì đây là quyền sử dụng đất phần không gian chứ không phải đất lưu không.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 48/2013/DS-PT ngày 03/9/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, hủy bản án sơ thẩm số 01/2013/DS-ST ngày 20/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình.
Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, viện kiểm sát huyện Lộc bình đã phân công kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, nhưng không phát hiện được hết các vi phạm để ban hành kháng nghị, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
4. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và buộc tháo dỡ công trình trên đất” của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn, giữa: Nguyên đơn: Nông Văn Hà. Bị đơn: Nông Văn Sơn. Cùng địa chỉ: Thôn Hà Quảng, xã Hòa Bình, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:1. Bà Hoàng Thị Thang; Trú tại: Thôn Hà Quảng, xã Hòa Bình, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. 2. Ủy ban nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.Người đại diện theo ủy quyền ông Hoàng Văn Hùng, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 24/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan , xử: “Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nông Văn Hà đòi quyền quản lý sử dụng diện tích 91,5m2 đất tại thửa số 29, tờ bản đồ số 47 bản đồ địa chính xã Hòa Bình, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn và buộc tháo dỡ công trình trên đất vì không có căn cứ.
Buộc ông Nông Văn Hà, bà Hoàng Thị Phượng phải tháo dỡ toàn bộ hàng rào xung quanh thửa đất tranh chấp.
Công nhận quyền quản lý sử dụng diện tích 91,5m2 đất, tại thửa số 29, tờ bản đồ số 47 bản đồ địa chính xã Hòa Bình đo vẽ năm 2009, địa danh Nà Pháo, thôn Hà Quảng, xã Hòa Bình, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00624 ngày 10/11/2010.
Ông Nông Văn Sơn được quyền quản lý sử dụng phần diện tích 25,5m2 trong tổng diện tích được cấp 117m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00624 ngày 10/11/2010, tại thửa số 29, tờ bản đồ số 47 bản đồ địa chính xã Hòa Bình, đo vẽ năm 2009 địa danh Nà Pháo, thôn Hà Quảng, xã Hòa Bình, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn do không có tranh chấp.
Giao cho ông Nông Văn Sơn được quản lý sở hữu tài sản trên đất là một chuồng trâu làm bằng cột gỗ nhóm 4, mái lợp ngói âm dương + phi Prô xi măng, vách bao quanh bằng phên tre (có sơ đồ kèm theo).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí định giá tài sản, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự:
Trong hạn luật định nguyên đơn ông Nông Văn Hà kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn kháng nghị theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Việc xác định tư cách đương sự: Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/11/2012 và ngày 10/12/2012, phần người khởi kiện có ghi nông Văn Hà và vợ là Nông Thị Phượng, phần người viết đơn cả ông Hà, bà Phượng cùng ký tên, điểm chỉ và theo đơn khởi kiện bổ sung ngày 19/02/2013, ngày 06/5/2013 bà Phượng là người viết đơn, ký tên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Sơn phải tháo dỡ công trình trên đất để bà được tiếp tục quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp và yêu cầu hủy giấy chứng nhậ quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Sơn, nhưng quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định ông Hà là nguyên Đơn trong vụ án, mà không xác định tư cách nguyên đơn của bà Phượng là không xác định đầy đủ tư cách đương sự trong vụ án, đã vi phạm khoản 2, Điiều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc thu thập chứng cứ: Quá trình giải quyết vụ án bà Phượng cho rằng trên diện tích đất tranh chấp, gia đình bà cho gia đình ông Sơn làm nhờ chuồng trâu, còn diện tích đất xung quanh chuồng trâu gia đình bà vẫn quản lý sử dụng, hàng năm bà vẫn trồng hoa màu và hiện tại trên đất tranh chấp bà trồng cây khoai mon. Còn ông Sơn cho rằng ông được quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp liên tục từ năm 1993 đến nay, ngoài sử dụng diện tích 17,6m2 chuồng trâu, diện tích đất còn lại ông Sơn quản lý sử dụng như thế nào chưa được xác minh làm rõ.
Đồng thời quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sơ thẩm chưa yêu cầu cơ quan chuyên môn cung cấp đầy đủ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Sơn để làm căn cứ xem xét giải quyết vụ án là thiếu sót.
Bản án nhận định nhưng không tuyên và phần quyết định tuyên không đầy đủ: Bản án sơ thẩm đã nhận định việc ông Hà yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận, nhưng phần quyết định của bản án sơ thẩm lại không xem xét quyết định yêu cầu này của ông Hà là chưa xem xét giải quyết hết yêu cầu của đương sự.
Đồng thời cũng tại phần quyết định của bản án sơ thẩm đã ghi: “Công nhận quyền quản lý sử dụng diện tích 91,5m2 đất, tại thửa số 29, tờ bản đồ số 47, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00624 ngày 10/11/2010…”, Nhưng không ghi rõ công nhận cho ai quyền quản lý sử dụng là chưa đầy đủ, gây khó khăn cho công tác thi hành án.
Giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự: Bản án sơ thẩm xử cho ông Nông Văn Sơn được quyền quản lý sử dụng phần diện tích 25,5m2 trong tổng diện tích được cấp 117m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 10/11/2010, tại thửa số 29, tờ bản đồ số 47 là không chính xác, vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, vì diện tích đất này các bên đương sự không có tranh chấp.
Về định giá tài sản: Tòa án sơ thẩm đã thụ lý giảiquyết vụ kiện là tranh chấp quyền sử dụng đất, buộc tháo dỡ công trình trên đất và tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ đã xác định tài sản là 01 chuồng trâu có diện tích 17,6m2, nhưng khi tiến hành định giá về tài sản để làm căn cứ tính án phí là không đúng quy định.
Về án phí: Bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của ông Hà nhưng không buộc ông Hà phải chịu án phí đối với yêu cầu “buộc tháo dỡ công trình trên đất” không được chấp nhận là trái với quy định tại điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 50/2013/DS-PT ngày 04/9/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, hủy bản án sơ thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 24/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan.
Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát huyện Văn Quan đã phân công kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, nhưng không phát hiện được vi phạm, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
5. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn,, giữa: Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Dinh; Trú tại: Tổ 1, khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Bị đơn: Bà Dương Thị Hằng; Trú tại: Số 16, Văn Vỉ, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân huyện Cao Lộc; Bà Trần Thị Nụ; Ông Dương Xuân Tuấn; Ông Đoàn Năng Hùng; Bà Hồ Thị Lan Anh.
Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 11/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, xử:
“1. Công nhận quyền quản lý, sủ dụng của hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh đối với phần diện tích đất 184,76m2 (trong số 271,56m2 đất tranh chấp) tại thửa số 731, tờ bản đồ số 01 bản đồ địa chính xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đã được UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên chủ sử dụng là ông Nguyễn Ngọc Dinh và vợ là bà Trần Thị Nụ, trú tại: Tổ 1, khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
2. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 86,78m2 tại thửa số 731 trong tổng diện tích 4.099m2, thuộc tờ bản đồ số 01 bản đồ địa chính đất lâm nghiệp, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đo vẽ năm 2008 đã được UBND huyện Cao Lộc cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh và vợ là bà Trần Thị Nụ địa chỉ tổ 1, khối 5 xã Hợp Thành, huyện Cao lộc, tỉnh lạng Sơn cấp ngày 27/10/2010. Xác nhận diện tích bị hủy trên nằm tại thửa đất số 246 tờ bản đồ địa chính số 57 xã Hợp thành, huyện cao Lộc thuộc quyền quản lý sử dụng của ông Đoàn Năng Hùng (có sơ họa khu đất tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/5/2013 kèm theo)”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí định giá tài sản, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Trong hạn luật địnhbị đơn Dương Thị hằng kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm giải quyết cho chị được quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp; Không chấp nhận yêu cầu của ông Đoàn Năng Hùng đòi quản lý, sử dụng 86,78m2 trong tổng diện tích đất tranh chấp; Tuyên hủy giấy chứng nhận đã cấp cho ông Nguyễn Ngọc Dinh. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn kháng nghị theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Việc thu thập chứng cứ: Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ đã xác định các phía tiếp giáp diện tích đất của ông Dinh có phía Đông giáp đất ông Đoàn Năng Hùng, nhưng theo sơ đồ thửa đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Dinh, thì thửa đất 731 của ông Dinh chỉ tiếp giáp với các thửa 717, 725,737,738,742, không tiếp giáp với thửa số 246 của ông Đoàn Năng Hùng. Còn tại công văn số 589/UBND-TNMT ngày 10/7/2012 của phòng tài nguyên và môi trường huyện Cao Lộc đã xác định: “Thửa 731 là đất chuyên dùng do Nhà nước quản lý; Thửa 742 (gần thửa 731) là đất ở nông thôn trong đó có nhiều hộ gia đình, cá nhân sử dụng, năm 2008 đo vẽ bản đồ địa chính đất Lâm nghiệp không đo chi tiết mà đo gộp cả khu vực đất ở đó thành một thửa; Thửa số 725 đã cấp cho bà Đoàn Thị Ninh, toàn bộ số diện tích trên nằm trong thửa số 246 đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đoàn năng Hùng”. Như vậy thửa đất số 731 của ông Dinh có giáp với thửa 246 của ông Hùng hay không, chưa được cấp sơ thẩm xem xét làm rõ.
Về trình tự cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Theo biên bản giải quyết tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng ngày 02/7/2010 của Ủy ban nhân dân xã Hợp Thành, thì tranh chấp xảy ra từ ngày 07/6/2010, nhưng đến ngày 27/10/2010 Ủy ban nhân dân huyện Cao Lộc vẫn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Dinh, bà Nụ khi đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, như vậy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông dinh là không đúng trình tự, thủ tục theo quy định Luật đất đai, vấn đề này cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ.
Về xác định tư cách người tham gia tố tụng:
 Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Ủy ban nhân dân huyện Cao Lộc khẳng định toàn bộ thửa đất 725 cấp cho bà Hoàng Thị Ninh nằm trong thửa đất số 246 đã cấp cho ông Đoàn Năng Hùng, nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Ninh vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng.
Phần nhận định và quyết định của bản án:
Tại phần nhận định của bản án sơ thẩm đã nhận định đối với số tiền chị Hằng bỏ ra thuê máy xúc san ủi đất và xây tường rào bao quanh diện tích đất tranh chấp là việc làm không đúng pháp luật, nên chị Hằng phải tự chịu thiệt hại, nhưng phần quyết định của bản án sơ thẩm lại không xem xét giải quyết đối với bức tường rào chị Hằng đã xây bao quanh diện tích đất tranh chấp và không buộc chị Hằng phải tháo dỡ bức tường đó là chưa giả quyết hết các mối quan hệ trong cùng vụ án, gây khó khăn trong công tác thi hành án.
Về phần chi phí định giá:
Tại biên bản định giá ngày 22/5/2012 đã xác định các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá trị tài sản tranh chấp và yêu cầu Hội đồng định giá tiến hành định giá, nhưng bản án sơ thẩm lại buộc chị Hằng phải chịu toàn bộ chi phí định giá là trái với quy định tại khoản 3 Điều 142 Bộ luật tố tụng dân sự.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 51/2013/DS-PT ngày 06/9/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, hủy bản án sơ thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 11/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc.
Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát huyện Cao Lộc đã phân công kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, nhưng không phát hiện được vi phạm, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
6. Vụ ánTranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, giữa Nguyên đơn: Trần Linh Sơn; Trần Thị Bích Thủy cùng trú tại: Số 157, đường Chi Lăng, khu Tân Mỹ I, thị trấn Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Bị đơn: Nguyễn Thị Tuyết; trú tại: Số 9, đường Ba Đình, khu Tân Mỹ I, thị trấn Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trương Quốc Sự.
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2013/DS-ST ngày 17/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, xử:
“1. Tuyên bố việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất (theo giấy chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 26/01/2006) giữa bà Nguyễn Thị Tuyết với ông Trần Linh Sơn và bà Trần Thị Bích Thủy đối với 80m2 nằm trong diện tích đất 245m2 thuộc thửa đất số 39, tờ bản đồ số 13 tại khu Tân Mỹ I, thị trấn Hữu Lũng bị vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Linh Sơn và bà Trần Thị Bích Thủy. Ông Sơn và bà Thủy phải trả cho bà Tuyết diện tích 80m2 đất thuộc thửa đất số 39, tờ bản đồ số 13 tại khu Tân Mỹ I, thị trấn Hữu Lũng và toàn bộ tài sản trên đất. Bà Tuyết phải trả cho ông Sơn, bà Thủy số tiền 430 triệu đồng…”
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Trong hạn luật định bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết kháng cáo yêu cầu ông Sơn, bà Thủy trả tiền thuê đất từ năm 2006 đến nay với giá 3,6 triệu đồng/năm x 6 năm = 21,6 triệu đồng; Xác định lỗi của ông Sơn, bà Thủy đối với việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng và yêu cầu bồi thường thiệt hại từ 26/01/2006 đến nay do bà không được canh tác.
Nội dung vụ án:
Ngày 26/01/2006 ông Trần Linh Sơn và vợ là bà Trần Thị Bích Thủy thỏa thuận mua mảnh đất diện tích 80m2 với bà Nguyễn Thị Tuyết ở cùng khu Tân Mỹ I, thị trấn Hữu Lũng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định. Đến ngày 20/7/2006 hai bên lập giấy nhận nợ với nội dung bà Tuyết vay ông Sơn, bà Thủy số tiền 130 triệu đồng từ ngày 26/01/2006 hẹn đến tháng 01/2007 trả, nếu bà Tuyết không trả được sẽ chuyển cho vợ chồng ông Sơn, bà Thủy mảnh đất 80m2 tại khu Tân Mỹ I, thị trấn Hữu Lũng, huyện Hữu Lũng (ghi cụ thể các phía tiếp giáp), có ông Lê Hữu Duy là người làm chứng, không có xác nhận của chính quyền địa phương.
Thời điểm hai bên lập giấy thỏa thuận đất mang tên bà Lộc Thị Hiền, do bà Tuyết nhận chuyển nhượng từ bà Hiền nhưng chưa hoàn tất thủ tục. Năm 2011 bà Tuyết làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất từ bà Hiền sang tên của mình và được Ủy ban nhân dân huyện Hữu Lũng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17/01/2012, với diện tích đất 245m2 tại thửa số 238, tờ bản đồ số 15, trong đó có 100m2 đất ở đô thị và 145 đất trồng cây lâu năm.
Bà Tuyết cho rằng trong 80m2 đất chuyển nhượng cho ông Sơn, bà Thủy chỉ có 20m2 đất thổ cư còn lại là đất vườn, nhưng theo ông Sơn, bà Thủy thì giấy chuyển nhượng ghi toàn bộ là đất thổ cư. Nay ông, bà khởi kiện yêu cầu hủy việc thỏa thuận mua bán đất giữa ông, bà và bà Tuyết, do bà Tuyết vi phạm thỏa thuận. 
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm đã vi phạm về việc xác định thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điều 427 của Bộ luật dân sự. Vì theo giấy thỏa thuận ngày 20/7/2006 giữa ông Sơn, bà Thủy và bà Tuyết thì các bên đã thống nhất đến tháng 01/2007 bà Tuyết phải trả cho ông Sơn, bà Thủy số tiền 130 triệu đồng mà bà Tuyết đã nhận ngày 26/01/2006, nếu bà Tuyết không trả thì phải chuyển nhượng cho ông Sơn, bà Thủy mảnh đất 80m2 như thỏa thuận. Từ tháng 01/2007 đến nay thỏa thuận này vẫn chưa được thực hiện. Đến tháng 6 năm 2012 ông Sơn, bà Thủy mới có đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng giữa hai bên không thống nhất được, do đó ông, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng giải quyết. Tính từ tháng 01/2007 là ngày thỏa thuận bị vi phạm đến ngày Tòa án thụ lý giải quyết 05/10/2012 thì yêu cầu của ông Sơn, bà Thủy đã hết thời hiệu 02 năm theo quy định của Bộ luật dân sự.
Với vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 47/2013/DS-PT ngày 28/8/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử, Hủy bản án sơ thẩm số 02/2013/DS-ST ngày 17/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng và đình chỉ giải quyết vụ án. Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát hai cấp không phát hiện được vi phạm, cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
7. Vụ án “Buộc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, giữa: Nguyên đơn: Ngô Thị Được; Địa chỉ: Số 4 ngõ 6, khối 3, đường Bà Triệu, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Bị đơn: Vũ Văn Hải; Địa chỉ: Số 54, đường Ngô Văn Sở, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2013/DS-ST ngày 25/7/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, xử:
“Buộc anh Vũ Văn Hải phải thanh toán cho bà Ngô Thị Được số tiền 67.130.000đ trong phạm vi ½ giá trị 33,2m2 đất tại thửa số 69, tờ bản đồ 29, khối 2, phường Hoàng Văn Thụ. Thành phố Lạng Sơn theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H-02955 ngày 05/5/2008 mang tên hộ bà Phạm Thị Tuyết”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Trong hạn luật định bị đơn anh Vũ Văn Hải kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn kháng nghị theo hướng hủy bản án sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Quá trình giải quyết vụ án xác định chị Phạm Thị Tuyết và anh Vũ Văn Hải là vợ chồng, đã có một con chung là cháu Vũ Anh Quân và theo lời khai của bà Được thì mẹ để chị Tuyết là bà Tý hiện vẫn còn sống tại số nhà 112, đường Chùa Tiên, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Như vậy khi chị Tuyết chết không để lại di chúc, những người được hưởng thừa kế di sản của chị Tuyết, đồng thời cũng là những người phải có nghĩa vụ thực hiện việc trả nợ thay cho chị Tuyết bao gồm anh Hải, cháu Quân và bà Tý. Nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm không đưa bà Tý và cháu Quân vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, là vi phạm quy định tại khoản 4 điều 56 BLTTDS.
Đồng thời căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ đã xác định trên diện tích đất thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 29 tại khối 2, phường Hoàng Văn Thụ, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ bà Phạm Thị Tuyết, hiện có 01 ngôi nhà 3 tầng và theo lời khai của anh Hải, chị Vũ Thị Loan là chị gái anh Hải và ông Ngô Văn Liên là cậu anh Hải đều khai nhận ngôi nhà 3 tầng là do chị Loan bỏ tiền ra xây dựng năm 2010, sau khi chị Tuyết đã chết, nhưng Tòa án sơ thẩm cũng chưa xác minh làm rõ để đưa chị Loan vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Hơn nữa khi giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm xác định di sản của chị Tuyết để lại là 1/2 diện tích đất thửa 69, tờ bản đồ số 29 tại khối 2, phường Hoàng Văn Thụ, nhưng Tòa án sơ thẩm chưa xem xét thẩm định và định giá tài sản để xác định di sản để lại có phải thuộc địa chỉ số 54 (trước đây là số 52), đường Ngô Văn Sở, phường Hoàng Văn Thụ hay không và giá trị 1/2 diện tích đất tại thửa số 69 có đảm bảo để thanh toán khoản nợ của chị Tuyết không, nhưng đã buộc anh Vũ Văn Hải phải thanh toán cho bà Ngô Thị Được số tiền 67.130.000đ trong phạm vi 1/2 giá trị 33,2m2 đất tại thửa số 69, tờ bản đồ 29, khối 2 là chưa đảm bảo căn cứ.
Với những vi phạm nêu trên bản án phúc thẩm số 57/2013/DS-PT ngày 23/9/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát thành phố Lạng Sơn, Hủy bản án sơ thẩm số 09/2013/DS-ST ngày 25/7/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn.   
Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát thành phố Lạng Sơn đã phát hiện được vi phạm và ban hành quyết định kháng nghị.
Trên đây là những vụ án bị cấp phúc thẩm xử hủy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tổng hợp thông báo để các đơn vị cấp huyện, thành phố được biết và cùng rút kinh nghiệm chung trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự để thực hiện quyền kháng nghị theo quy định./.
TH 
Tìm kiếm