CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

VKSND tối cao chỉ đạo xử lý thông tin báo đăng liên quan đến hoạt động của ngành KSND từ ngày 02/3/2012 đến 08/3/2012

12/03/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
Báo Công lý số 18 ngày 02/3/2012, có bài: “Có bỏ lọt tội phạm”của tác giả An Dương. Nội dung: Vụ án Ngô Văn Bẩy, cán bộ Ban quản lý dự án cải thiện sự tham gia thị trường cho người nghèo tỉnh Trà Vinh (gọi tắt là dự án IMPP) và Ngô Thành Thái, Trưởng phòng kinh doanh Trung tâm Nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ, trường Đại học Trà Vinh lừa đảo chiếm đoạt 199,8 triệu đồng của Trung tâm đã được Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử vào ngày 24/02/2012 với mức án dành cho Bẩy là 3 năm tù và Thái 2 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo...
VKSND tối cao chỉ đạo xử lý thông tin báo đăng liên quan đến
hoạt động của ngành KSND từ ngày 02/3/2012 đến 08/3/2012
 
Báo Công lý số 18 ngày 02/3/2012, có bài: “Có bỏ lọt tội phạm”của tác giả An Dương. Nội dung: Vụ án Ngô Văn Bẩy, cán bộ Ban quản lý dự án cải thiện sự tham gia thị trường cho người nghèo tỉnh Trà Vinh (gọi tắt là dự án IMPP) và Ngô Thành Thái, Trưởng phòng kinh doanh Trung tâm Nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ, trường Đại học Trà Vinh lừa đảo chiếm đoạt 199,8 triệu đồng của Trung tâm đã được Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử vào ngày 24/02/2012 với mức án dành cho Bẩy là 3 năm tù và Thái 2 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Trong vụ án này có dấu hiệu bỏ lọt 2 đồng phạm giúp sức là ông Dương Văn Lợi, cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Trà Vinh đã giả mạo là cán bộ Công ty TNHH Đệ Nhất đến trung tâm để thỏa thuận hợp đồng và đến lấy 37 triệu đồng, ông Tô Hữu Đạt, cán bộ dự án IMPP giúp Bẩy đi làm con dấu giả. Bà Quách Thị Vũ Huệ, Giám đốc Trung tâm và Dương Tuyết Anh, kế toán Trung tâm có hành vi thiếu trách nhiệm nhưng không được Điều tra viên và Kiểm sát viên làm rõ nên khi xét xử không được dư luận đồng tình.
Yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh kiểm tra vụ việc trên, báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao phụ trách và Viện phúc thẩm 3, đồng thời gửi báo cáo về Văn phòng VKSND tối cao để theo dõi.
Báo Pháp luật Việt Nam số 63 ngày 03/3/2012, có bài: “Bị cáo kêu oan, Tòa tuyên có tội” của tác giả Trần Phong. Nội dung: Chiều 28/2/2012, Sau 2 ngày xét xử, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã kết thúc phiên tòa sơ thẩm lần thứ 2 xét xử vụ án vợ, chồng Huỳnh Văn Quyên, Lê Thị Tám giết mẹ đẻ và đã tuyên mức án tù chung thân đối với Quyên. Lê Thị Tám được chuyển tội danh từ “ Giết người” sang tội “không tố giác tội phạm” và bị tuyên, 4 năm, 4 tháng 7 ngày tù, bằng thời gian bị tạm giam. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bị cáo đều không nhận tội và cho rằng họ bị ép cung, lời khai của các nhân chứng có nhiều mâu thuẫn, không thống nhất, thu giữ vật chứng không kiểm tra chi tiết, không lập biên bản niêm phong là vi phạm quy định của Luật Tố tụng hình sự. Luật sư cho rằng việc điều tra vụ án này có dấu hiệu của tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án”.
Yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long kiểm tra vụ việc trên, báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao phụ trách và Viện phúc thẩm 3, đồng thời gửi báo cáo về Văn phòng VKSND tối cao để theo dõi.
Báo Bảo vệ Pháp luật số 19 ngày 06 /3/2012, có bài: “Có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm” của tác giả Hoàng Hưng. Nội dung: Ngày 24/2/2012, TAND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng đã đưa vụ án Đỗ Đức Trường và Đỗ Đức Tân, ra xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” cho ông Đỗ Đức Tỉnh và bà Vũ Thị Hệ . Các bị can và bị hại đều là người trong cùng một dòng họ. Tuy nhiên, trong vụ án này còn có  Đỗ Đức Bạn là thủ phạm trực tiếp đánh gây thương tích cho ông Tỉnh lại không bị khởi tố, điều tra. Nhân chứng là người thân của các thủ phạm nên vụ án không khách quan, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. 
Yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng kiểm tra vụ việc trên, báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao phụ trách và Vụ 1A, đồng thời gửi báo cáo về Văn phòng VKSND tối cao để theo dõi.
Báo Đại biểu nhân dân số 67 ngày 07/3/2012, có bài: “Khi Cơ quan thi hành án vi phạm luật” của tác giả Nguyễn Thanh Xuân. Nội dung: Cuối năm 2008, do mâu thuẫn vợ chồng nên anh Nguyễn Văn H và chị Đinh Thị H đã đến Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xin ly hôn. Tòa án nhân dân huyện đã giải quyết cho anh chị thuận tình ly hôn và anh H có nghĩa vụ phải trả cho chị H số tiền 21.235.000 đồng. Do anh H không tự nguyện thi hành án nên ngày 03/7/2009, Cơ quan thi hành án đã thực hiện biện pháp cưỡng chế buộc anh H phải giao 175 m2 đất cho Chị H. Anh H đồng ý giao đất và tính giá trị của lô đất này là 25.380.000 đồng sau khi trừ chi phí cưỡng chế và tiền trả cho chị H số tiền còn lại anh H xin được nhận. Tuy nhiên, Chấp hành viên lại tự ý lập hợp đồng bán đất cho chị H lô đất trên với giá 21.000.000 đồng mà không được sự đồng ý của anh H. Việc làm trên của Chấp hành viên là vi phạm Điều 100 Luật thi hành án dân sự quy định về giao tài sản để thi hành án.
Yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp kiểm tra vụ việc trên, báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao phụ trách và Vụ 10, đồng thời gửi báo cáo về Văn phòng VKSND tối cao để theo dõi.
Báo Công lý số 31 ngày 07 /3/2012, có bài: “Chi cục thi hành án ra quyết định trái luật” của tác giả An Dương. Nội dung: Ngày 20/5/2010, bà Ngô Thị Mỹ Liên có ký hợp đồng mua căn nhà số 8, đường 34, phường Tân Quy, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh của Công ty TNHH thương mại vận tải Dương Hoàng Thịnh. Sau khi hoàn tất thủ tục mua nhà ngày 24/6/2010, Chi cục thi hành án quận 7 ra quyết định cưỡng chế, kê biên phát mại căn nhà trên vì lý do Công ty TNHH thương mại, vận tải Dương Hoàng Thịnh có trách nhiệm trả nợ Tổng Công ty hàng hải Việt Nam 2,99 tỷ đồng theo Quyết định số 20/2009/QĐST-KDTM ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân quận 7 nhưng sau khi bán nhà không chịu thi hành án. Bà Liên đã kiện vụ việc này ra Tòa án nhân dân quận 7. Ngày 10/01/2011, Tòa án nhân dân quận 7 xét xử vụ án có mời ông Nguyễn Văn Mỳ, Chi cục trưởng Chi cục thi hành án quận 7 tham dự với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tòa tuyên xử hợp đồng mua bán nhà của bà Liên với Công ty TNHH thương mại, vận tải Dương Hoàng Thịnh là đúng luật. Bản án không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực thi hành. Ngày 11/5/2011, bà Liên đã được Uỷ ban nhân dân quận 7 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất. Tuy nhiên, ngày 07/7/2011, ông Nguyễn Văn Mỳ lại ký văn bản số 277/THA yêu cầu tạm dừng việc đăng ký, chuyển nhượng đề nghị hủy hợp đồng mua bán ngôi nhà này. Ngày 09/11/2011, Tổng cục thi hành án cũng có văn bản xác nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy văn bản trên của ông Mỳ là trái luật. Khi bà Liên có đơn yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố và Tổng cục thi hành án làm rõ để xử lý việc ông Mỳ ra văn bản trái luật và bà đã bị đe dọa nếu không rút đơn kiện sẽ chịu hậu quả sống dở, chết dở.
Yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra vụ việc trên, báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao phụ trách và Vụ 10 , đồng thời gửi báo cáo về Văn phòng VKSND tối cao để theo dõi.
Trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục thông tin đến bạn đọc sự chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về xử lý thông tin báo đăng liên quan đến hoạt động của ngành Kiểm sát trong thời gian tới.
Thế Hùng 
Tìm kiếm