Tóm tắt nội dung vụ án và quá trình giải quyết:
Phần đất có diện tích 388,52m2 thuộc thửa 255, 256 tờ bản đồ số 42 phường Cát Lái, Quận 2 có nguồn gốc do ông Phạm Văn C và bà Võ Thị V tạo lập. Sau khi ông C chết, bà V tiếp tục sử dụng đến sau giải phóng 1975 thì không sử dụng nữa, từ năm 1977 vợ chồng ông Thái Văn L và bà Nguyễn Thị C khai hoang trồng hoa màu.
Tháng 10/1997, bà C và ông L cho cháu là ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị S cất nhờ một căn nhà cấp 4 có diện tích khoảng 40m2 để ở. Năm 1999 ông H tiến hành kê khai đăng ký đất với diện tích là 316m2, nguồn gốc đất là cha mẹ cho.
Ngày 02/12/2000, ông H, bà S đã chuyển nhượng bằng giấy tay toàn bộ diện tích đất cho bà Hoàng Thị D và bà Cao Thị C.
Đến năm 2001, vợ chồng ông H và bà S về nhà cha mẹ, không ở nữa. Do căn nhà tạm bị bỏ hoang nên dột nát, xập xệ, bà Nguyễn Thị C tiến hành tháo dỡ nhà thì vợ chồng ông H, bà S cản trở, cho rằng toàn bộ phần đất là do cha vợ là ông Nguyễn Văn M cho ông H, bà S. Từ đó xảy ra tranh chấp, bà Nguyễn Thị C khởi kiện ra Toà án.
Ông Trần Văn H và bà Nguyễn Thị S thì cho rằng phần đất tranh chấp thuộc thửa 255, 256 tờ bản đồ số 42 phường Cát Lái, Quận 2 có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn M là cha ruột của bà Nguyễn Thị S cho vợ chồng ông H, bà S sử dụng. Ông H, bà S có kê khai và đóng thuế sử dụng từ năm 1997 đến năm 2010, Năm 2000, ông H, bà S chuyển nhượng cho bà Hoàng Thị D và bà Cao Thị C theo Hợp đồng mua bán nhà đất ngày 02/12/2000. Bà D mua nhưng không sử dụng. Do đó không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn M tại Biên bản hòa giải do phường Cát Lái tiến hành lập ngày 05/3/2002 trình bày: Ông L (chồng bà Nguyễn Thị C) có cho con rể ông là ông Trần Văn H một phần diện tích đất khoảng 350m2, giấy tờ đăng bộ đã đăng ký, riêng trường hợp cho ông H chưa đăng ký, nên nhờ ông M đứng ra cho, nguồn gốc thực tế do gia đình bà Nguyễn Thị C khai hoang.
Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2019/DS-ST ngày 10/9/2019 của TAND quận A đã tuyên:
“1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị C và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Thái Văn L về việc yêu cầu được nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thiệt hại với diện tích đất 388,52m2 thuộc một phần thửa 255, 256; tờ bản đồ số 42 và một phần thửa 2, 3, tờ bản đồ số 43; Bản đồ địa chính năm 2003 thuộc một phần thửa 1729; tờ số 2; bộ địa chính xã Thạnh Mỹ Lợi, huyện Thủ Đức (theo tài liệu năm 1990) thể hiện tại Bản đồ hiện trạng vị trí số 40-4/Q2 do công ty Công nghệ Đo đạc Bản đồ Hoàng Việt lập ngày 10/4/2009.”
Bà Nguyễn Thị C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử sửa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C để bà C được nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
VKSND quận A kháng nghị: Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2019/DS-ST ngày 10/9/2019 của TAND quận A theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm số 234/2020/DSPT ngày 05/05/2020 của TAND thành phố Hồ Chí Minh, tuyên xử:
Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2019/DS-ST ngày 10/9/2019 của TAND quận A, thành phố Hồ Chí Minh;
Giao hồ sơ vụ án cho TAND quận A, thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết lại sơ thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Về tố tụng: Trong diện tích đất tranh chấp 388,52m2 nguyên đơn chỉ tranh chấp 345,29m2 bị thu hồi giải toả dự án, không tranh chấp diện tích 43,23m2 không bị thu hồi giải toả, nhưng Toà án sơ thẩm giải quyết hết diện tích 388,29m2 là vượt quá khởi kiện ban đầu vi phạm điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về cử người đại diện theo uỷ quyền: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn M với ông Trần Văn H, Nguyễn Thị S là vô hiệu do vi phạm về hình thức lẫn nội dung (không có công chứng chứng thực, người tặng cho không phải là chủ sử dụng đất). Ông H, bà S đã ký giấy tay bán đất diện tích đất tranh chấp cho bà Hoàng Thị D. Đất đã bị giải toả thu hồi làm dự án 345m2 và nay có tranh chấp. Theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.1 mục 2 phần II của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thì hợp đồng mua bán giữa ông H, bà S với bà D là vô hiệu. Như vậy, quyền lợi của bà D bị ảnh hưởng bởi yêu cầu khởi kiện của bà C do lỗi của ông H, bà S gây ra. Khi xem xét giải quyết vụ kiện cần phải xem xét giải quyết hậu quả các hợp đồng vô hiệu nên quyền lợi của bà D sẽ đối lập quyền lợi của ông H, bà S. Toà án sơ thẩm chấp nhận tư cách đại diện theo uỷ quyền của bà Hoàng Thị D là vi phạm điểm b khoản 1 điều 87 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
VKSND quận A trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án đã phát hiện những sai phạm của TAND quận A ban hành kháng nghị phúc thẩm kịp thời. Tuy nhiên, chưa phát hiện được vi phạm tố tụng nghiêm trọng này của TAND quận A. Chính vì vậy, xét thấy cần đưa ra để rút kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt chức năng, phát hiện nhiều vi phạm để thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, góp phần đảm bảo việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của các đương sự.
Đào Thị Xuân Hồng