Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSTC về công tác kiểm sát năm 2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động và thường xuyên theo dõi, quản lý đình chỉ điều tra án hình sự, nhằm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai trong điều tra, truy tố và xét xử...
Nguyên nhân và biện pháp khắc phục đình chỉ điều tra đối với bị can do không phạm tội, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội
Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSTC về công tác kiểm sát năm 2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động và thường xuyên theo dõi, quản lý đình chỉ điều tra án hình sự, nhằm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai trong điều tra, truy tố và xét xử. Hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp đã phê chuẩn khởi tố nhưng sau phải đình chỉ điều tra, nhất là đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp Viện kiểm sát quyết định truy tố, nhưng Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Năm 2012, tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội, Tòa án xét xử tuyên bị cáo không phạm tội tỷ lệ thấp, nhưng cũng cần phải rút kinh nghiệm.
Nhận xét chung:
Nhìn chung, Viện kiểm sát các cấp chú trọng quản lý chặt chẽ án đình chỉ điều tra, không để xảy ra số vụ án và bị can phải đình chỉ điều tra do không phạm tội và VKS truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội.
Các trường hợp đình chỉ điều tra do không phạm tội và Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội hầu hết có đủ căn cứ và đúng pháp luật. Lãnh đạo, Kiểm sát viên thường xuyên nắm bắt kịp thời những thay đổi của chính sách pháp luật, kinh tế, chính trị- xã hội vận dụng những quy định phù hợp của pháp luật, ban hành các quyết định kịp thời, đúng thời điểm nhằm đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật, nhân đạo khoan hồng của nhà nước.
Các trường hợp đình chỉ điều tra do không phạm tội và Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội đều được báo cáo về Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao khá đầy đủ (Cục thống kê); một số Viện kiểm sát tỉnh gửi báo cáo về Văn phòng, báo cáo việc xử lý trách nhiệm cá nhân đối với Kiểm sát viên và lãnh đạo, đơn vị trực tiếp liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Về hạn chế: Số lượng án phải đình chỉ điều tra do không phạm tội và Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội chiếm tỷ lệ quá thấp so với lượng án hình sự các cơ quan tố tụng thụ lý giải quyết, nhưng vẫn xảy ra, thể hiện còn nhiều thiếu sót vi phạm trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, cụ thể:
Các trường hợp Tòa tuyên bị cáo không phạm tội có thiếu sót của các cơ quan tố tụng khác, nhưng thiếu sót chính thuộc về Viện kiểm sát đã không thực hiện tốt công tác kiểm sát điều tra, truy tố và xét xử, nên quyết định phê chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn có liên quan, quyết định truy tố không đúng người, đúng tội dẫn đến oan sai.
Tòa tuyên không phạm tội một phần trong tranh luận với luật sư, bị cáo, Kiểm sát viên đã thiếu cơ sở viện dẫn căn cứ pháp luật, cung cấp và nắm chắc chứng cứ, kết hợp với thiếu chủ động sáng tạo, nên không bảo vệ được quan điểm truy tố của mình. Kiểm sát viên còn chủ quan với các vụ án người phạm tội phạm pháp quả tang, nhận tội, nên kiểm sát điều tra không sâu, không tranh luận được các chứng cứ gỡ tội tại tòa với bị cáo, luật sư.
Nguyên nhân: Xảy ra tỉnh trạng phải đình chỉ điều tra bị can do không phạm tội, và Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội là:
Về chủ quan:
Trách nhiệm quản lý, chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát địa phương còn nhiều thiếu sót trong chỉ đạo, kiểm tra cấp dưới, Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử hình sự như: phê chuẩn Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn áp dụng các biện pháp ngăn chặn chưa chuẩn xác, chỉ đạo kiểm sát điều tra chưa tốt, không nắm hết các tình tiết vụ án, đánh giá chứng cứ còn yếu kém, áp dụng pháp luật còn nhầm lẫn.
Không tổ chức nghiên cứu kỹ vụ án, bàn bạc tranh thủ ý kiến của cơ quan tố tụng, và thỉnh thị ý kiến chỉ đạo của cấp trên kịp thời, đối với vụ án phức tạp.
Việc kiểm tra xem xét các cán bộ dưới quyền, Kiểm sát viên trực tiếp giải quyết vụ án không sâu sát trong chấp hành Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, việc lập hồ sơ kiểm sát hình sự theo Quyết định số 07/QĐ ngày 12/1/2006 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm, rút ra những yếu kém, lý do dẫn đến oan sai, không nghiêm túc, kịp thời. Hầu hết các trường hợp Tòa tuyên bị cáo không phạm tội, đơn vị không chủ động báo cáo Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (chỉ báo cáo khi yêu cầu).
Về năng lực nghiệp vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên: Kiểm sát viên không thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát điều tra ngay từ đầu, thu thập chứng cứ không đầy đủ, đánh giá thiếu chính xác, còn nhầm lẫn giữa hành vi vi vi phạm về hành chính và hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nhầm lẫn chế tài hành chính và chế tài hình sự…không xem xét kỹ các yếu tố cấu thành tội phạm, áp dụng điều luật không chính xác.
Không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm chứng cứ không chắc, không chuẩn bị chu đáo Đề cương xét hỏi, dự kiến tình hình phát sinh mới tại tòa, không bảo vệ được quan điểm của mình khi tranh luận với Luật sư, bị cáo, dẫn đến Tòa phải tuyên bị cáo không phạm tội.
Về khách quan:
Việc hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp trên về kiến thức, kỹ năng thực hiện quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử chưa thường xuyên, kịp thời; kiểm tra xem xét của Viện kiểm sát cấp trên về lĩnh vực công tác này hiệu quả chưa cao .
Đào tạo và đào tạo lại đối với các cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa thường xuyên, và thực sự có chất lượng.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện. Một số các quy định của pháp luật: Bộ luật tố tụng hình sự, Dân sự, Pháp lệnh về Điều tra và các văn bản dưới luật thiếu đồng bộ, còn nhiều khe hở, bất cập, chưa có đủ chế tài cập nhật hành vị phạm tội diễn ra trong thực tế. Nhiều quy định của pháp luật chưa được áp dụng thống nhất.
Một số biện pháp khắc phục tình trạng đình chỉ điều tra vụ án với bị can và Tòa án tuyên bị cáo không tội.
Mặc dù lượng bị can bị đình chỉ điều tra do không phạm tội và số bị cáo Tòa án tuyên không tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật so với tổng số bị can, bị cáo đã bị khởi tố, truy tố và xét xử là rất nhỏ, nhưng cho thấy việc khởi tố, áp dụng các biện pháp ngăn chặn và truy tố oan sai của Viện kiểm sát vẫn là điều Đảng và Nhà nước quan tâm, phải khắc phục ngay mới đáp ứng được yêu cầu cầu cách tư pháp. Để hạn chế đến mức thấp nhất những thiếu sót trên, cần thiết phải áp dụng các biện pháp sau:
Nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra. Kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Kiểm sát viên, cụ thể: Kiểm sát viên phải nêu cao trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ, nắm chắc các quy định của pháp luật hình sự khi hực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, kiểm sát việc khởi tố, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đánh giá chứng cứ một cách chính xác, từ đó đề xuất khởi tố bị can, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát chặt chẽ Quyết định khởi tố vụ án, kiên quyết không đủ chứng cứ thì không phê chuẩn khởi tố bị can. Với các vụ án phức tạp nhiều hành vi vi phạm, nhiều người tham gia, cần thiết cùng lãnh đạo, tập thể đơn vị, Ủy ban kiểm sát bàn bạc, thỉnh thị ý kiến cấp trên trước khi quyết định đình chỉ hay phê chuẩn khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: bắt tạm giam, lệnh tam giam…
Kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra, đánh giá chứng cứ đúng đắn, phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quyết định truy tố đảm bảo đúng người đúng tội. Nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm chắc chứng cứ, dự kiến câu hỏi, tình huống phát sinh tại phiên tòa, rèn luyện bản lĩnh chức chắn, tự tin, bảo vệ thành công được quan điểm truy tố của Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên nâng cao trách nhiệm với công việc, có phẩm chất đạo đức tốt, không bỏ lọt tội, không làm oan người vô tội, không vì tư lợi, tình cảm riêng tư làm sai lệch bản chất sự thật của vụ án, hành vi phạm tội.
Lãnh đạo đơn vị phải quan tâm, theo dõi, kiểm tra lại vụ án, phải nghe kỹ, yêu cầu kiểm sát viên báo cáo các tình tiết, chứng cứ định tội của vụ án, khi Kiểm sát viên đề xuất phê, duyệt các quyết định tố tụng, Cáo trạng, duyệt án. Vụ án phức tạp thì họp đơn vị, Ủy ban kiểm sát, tranh thủ ý kiến cơ quan tố tụng, thỉnh thị ý kiến cấp trên, mới quyết định.
Những vướng mắc về nhận thức, về phối hợp giữa các cơ quan tố tụng: Cơ quan điều tra- Kiểm sát- Tòa án, cần phải thống nhất trong quy chế hay hướng dẫn bằng Thông tư liên ngành của cấp trên, để Viện kiểm sát cấp dưới lấy đó làm căn cứ thực hiện.
Viện kiểm sát cấp trên thường xuyên kiểm tra việc theo dõi, quản lý chặt chẽ án đỉnh, tạm đình chỉ và các căn cứ của các quyết định này. Kịp thời phát hiện những sai sót, yêu cầu khắc phục, hạn chế đến mức thấp nhất có thể xảy ra.
Kịp thời báo cáo đẩy đủ về Viện kiểm sát nhân dân tối cao các trường hợp về án đình chỉ, nhất là đình do bị can không pham tội, Tòa tuyên bị cáo không phạm tội, để Viện kiểm sát nhân dân tối cao kịp thời chỉ đạo nhằm khắc phục tình trạng này.
Một số đề xuất:
Về pháp luật: Cần sửa đổi nội dung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các văn bản dưới luật, các Thông tư liên ngành, Hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án tối cao đảm bảo chính xác, chặt chẽ, phù hợp thực tế diễn biến tội phạm.
Thẩm quyền cấp huyện tăng, số lượng án hình sự nhiều. Cần tăng biên chế, nhất là Kiểm sát viên; thường xuyên mở lớp đào tạo, đào tạo lại, hướng dẫn, tập huấn nâng cao kiến thức nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử, kỹ năng tranh tụng…cho cán bộ Kiểm sát.
Có chính sách đãi ngộ, khen thưởng thi đua với người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và ngược lại; xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời với người để xảy ra tình trạng vi phạm trên.
Chuẩn bị, trang bị phương tiện, điều kiện làm việc, phương tiện làm việc cho đơn vị Viện kiểm sát cấp huyện, nhất là nơi nhiều án, vùng sâu, vùng xa.
Xây dựng Quy chế và quản lý chặt chẽ loại án đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội; tổng kết rút kinh nghiệm đến từng đơn vị Viện kiểm sát địa phương.
Đưa vào chỉ tiêu quyết định đánh giá thi đua cuối năm với đơn vị, cá nhân có loại án này.
Có quy định về chế độ thỉnh thị ý kiến chỉ đạo của cấp trên đơn giản, thường xuyên, dễ liên hệ, tạo điều kiện cho Viện kiểm sát địa phương thực hiện việc thỉnh thị thường xuyên.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hàng năm tiến hành kiểm tra sâu sát về chỉ tiêu này. Kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo về quản lý, xử lý trách nhiệm cá nhân, tập thể cho Viện kiểm sát địa phương.
Thái Hưng