Nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử hình sự, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự rút kinh nghiệm việc áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự về những thiếu sót, vi phạm được kháng nghị và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, cụ thể như sau: Vụ án: Vũ Quốc Huy (sinh năm 1975, trú tại số 10, phố Minh Khai, phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố HN) bị bắt và đưa ra xét xử về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Huy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt...
Rút kinh nghiệm những vi phạm về tổng hợp hình phạt
Nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử hình sự, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự rút kinh nghiệm việc áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự về những thiếu sót, vi phạm được kháng nghị và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, cụ thể như sau:
Vụ án: Vũ Quốc Huy (sinh năm 1975, trú tại số 10, phố Minh Khai, phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố HN) bị bắt và đưa ra xét xử về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Huy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 325 ngày 29/5/2009, Toà án nhân dân thành phố HN, đã áp dụng khoản 1 và khoản 4 Điều 267; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt: 12 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Chưa chấp hành hình phạt 12 tháng tù trên, thì Vũ Quốc Huy lại phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, bị bắt và đưa ra xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố HN. Vũ Quốc Huy lại kháng cáo xin giám nhẹ hình phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 355 ngày 6/7/2010, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố HN, đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 51 Bộ Luật hình sự, xử phạt: Vũ Quốc Huy 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp hình phạt với 12 tháng tù của bản án hình sự phúc thẩm số 325 ngày 29/5/2009 của Toà án nhân dân thành phố HN trên, tuyên: Buộc Vũ Quốc Huy phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 13 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/2/2008.
Ngay sau đó, Vũ Quốc Huy lại phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trong vụ án khác. Tại bản án sơ thẩm số 188/2010/HSST ngày 19/4/2010, Tòa án nhân dân thành phố HN xử phạt Vũ Quốc Huy 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Vũ Quốc Huy lại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 269 ngày 13/5/2011, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố HN, đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 51 Bộ luật hình sự giữ nguyên bản án sơ thẩm số 188/2010/HSST ngày 19/4/2010 của Tòa án nhân dân thành phố HN xử phạt Vũ Quốc Huy 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù tại bản án hình sự phúc thẩm số 325/2009/HSPT ngày 29/5/2009 của Toà án nhân dân thành phố HN, Buộc Vũ Quốc Huy phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 14 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/8/2008.
Bản án hình sự phúc thẩm số 269, ngày 13/5/2011 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại HN và bản án hình sự sơ thẩm số 188, ngày 19/4/2010 của Toà án nhân dân thành phố HN bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm số 06, ngày 27/3/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án hình sự phúc thẩm số 269, ngày 13/5/2011 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại HN và bản án hình sự sơ thẩm số 188, ngày 19/4/2010 của Toà án nhân dân thành phố HN, về phần quyết định: “áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự”, “Tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức tại bản án hình sự phúc thẩm số 325/2009/HSPT ngày 29/5/2009 của Toà án nhân dân thành phố HN buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 14 năm tù” đối với Vũ Quốc Huy để tiến hành việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo đúng quy định của pháp luật.
Qua vụ án trên, vấn đề cần rút kinh nghiệm ở đây là:
- Bản án hình sự phúc thẩm số 325 ngày 29/5/2009, Toà án nhân dân thành phố HN kết án Vũ Quốc Huy bị 12 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”.
- Bản án số 355 ngày 6/7/2010, Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN kết án Vũ Quốc Huy 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tổng hợp với 12 tháng tù của bản án số 325 ngày 29/5/2009, buộc Vũ Quốc Huy phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 13 năm.
Vũ Quốc Huy còn phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nên bị Tòa án nhân dân thành phố HN xử phạt 13 năm tù, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 188, ngày 19/4/2010 (Bản án này bị cáo kháng cáo).
- Bản án hình sự phúc thẩm số 269, ngày 13/5/2011, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại HN giữ nguyên bản án sơ thẩm số 188 trên và tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù tại bản án hình sự phúc thẩm số 325 ngày 29/5/2009, của Tòa án nhân dân thành phố HN, buộc Vũ Quốc Huy phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 14 năm tù.
Như vậy, bản án số 269 trên, lại tổng hợp thêm 1 lần nữa 12 tháng tù của bản án hình sự phúc thẩm số 325 ngày 29/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố HN (12 tháng tù này đã được tổng hợp hình phạt tại Bản án số 355 ngày 6/7/2010, Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao); trong khi đó, hình phạt 13 năm tù tại bản án hình sự phúc thẩm số 355 ngày 6/7/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN lại không được tổng hợp với hình phạt 13 năm tù của bản án hình sự phúc thẩm số 269 ngày 13/5/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN; nếu được tổng hợp hình phạt thì Vũ Quốc Huy phải chịu một hình phạt là 26 năm tù (?!).
Những sai lầm nghiêm trọng trong việc tổng hợp hình phạt như trên, khi bị cáo phạm nhiều tội cần phát hiện ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, và xét xử nhất là khi xác minh lý lịch bị can cũng như trích lục tiền án, tiền sự; Cơ quan điều tra cần làm rõ trong hồ sơ, tránh xem xét qua loa; Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử được phân công giải quyết vụ án phải hết sức thận trọng, lưu tâm trong quá trình tiến hành tố tụng. Chính những thiếu sót nêu trên cũng không được Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phát hiện nên dẫn đến sai lầm từ cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm trong phần tổng hợp hình phạt đối với nhiều bản án; chỉ đến khi Vũ Quốc Huy chấp hành hình phạt tại trại giam thì những thiếu sót về tổng hợp hình phạt đối với bị cáo mới được phát hiện.
Vụ án tiếp theo: Nguyễn Xuân Cường (sinh năm 1967; trú tại phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố HN), có hành vi “ Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, bị bắt và đưa ra xét xử. Bản án hình sự sơ thẩm số 22, ngày 4/3/1992 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, áp dụng khoản 1 Điều 95; Điều 38; điểm đ Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985, xử phạt)15 tháng tù về tội “ Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” nhưng cho hưởng án treo, thử thách là 30 tháng. Cường bị tạm giam từ ngày 15/8/1991 đến ngày 31/11/1991.Ngày 30/6/1995 Nguyễn Xuân Cường và đồng bọn thực hiện hành vi hiếp dâm và hành vi mua bán phụ nữ; bị bắt tạm giam ngày 12/7/1995 và đưa ra xét xử.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 78, ngày 31/12/1996, Tòa án nhân dân thành phố HN áp dụng các điểm a, b và c khoản 2 Điều 112; các điểm c,d khoản 1 Điều 115; Điều 41 và Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1985; xử phạt Nguyễn Xuân Cường 10 năm tù về tội “Hiếp dâm” và 06 năm tù về tội “Mua bán phụ nữ”; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 16 năm tù; tổng hợp hình phạt với 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của bản án hình sự sơ thẩm số 22 ngày 4/3/1992 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 17 năm 3 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/7/1995.Nguyễn Xuân Cường kháng cáo xin giảm hình phạt.
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN, ra Bản án hình sự phúc thẩm số 888 ngày 17/6/1997 tuyên: giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 78, ngày 31/12/1996 của Tòa án nhân dân thành phố HN. (Bản án số 888 ngày 17/6/1997 này, sau đó đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm).
Quyết định giám đốc thẩm số 01 ngày 13/02/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy bản án hình sự phúc thẩm số 888, ngày 17/6/1997 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN, về phần quyết định:... “Buộc bị cáo chấp hành hình phạt của bản án số 22 ngày 4/3/1992 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm”. Tổng hợp hình phạt của hai bản án, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 17 năm 3 tháng (mười bẩy năm ba tháng) và bản án hình sự sơ thẩm số 78 ngày 31/12/1996 của Tòa án nhân dân thành phố HN về phần quyết định... “buộc bị cáo chấp hành hình phạt của bản án số 22 ngày 4/3/1992 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm. Tổng hợp hình phạt của hai bản án, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 17 (mười bẩy) năm 3 (ba) tháng tù” đối với Nguyễn Xuân Cường và đình chỉ vụ án với việc giải quyết phần quyết định này.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm qua hai vụ án trên:
Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, TP HN, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/HSST ngày 4/3/1992, đã áp dụng khoản 1 Điều 95; Điều 38; điểm đ Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985, xử phạt Nguyễn Xuân Cường 15 tháng tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án. Bản án không bị kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật; đến ngày 4/9/1994 thì thời hạn thử thách đối với Nguyễn Xuân Cường đã hết.
Ngày 30/6/1995, Nguyễn Xuân Cường cùng đồng bọn thực hiện hành vi hiếp dâm, mua bán phụ nữ (không còn trong thời gian thử thách); nhưng khi xét xử bị cáo về các tội này, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của bản án hình sự số 22/HSST ngày 4/3/1992. Như vậy, Hội đồng xét xử đã nhầm lẫn cho rằng Nguyễn Xuân Cường thực hiện tội phạm trong thời gian thử thách án treo (án sơ thẩm số 22/HSST ngày 4/3/1992 của Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm).
Đây là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật (khoản 5 Điều 60 và Điều 51 Bộ luật hình sự). Sau khi xét xử phúc thẩm bị cáo kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử nhưng cũng không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm nên giữ nguyên bản án sơ thẩm làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyễn Xuân Cường. Trách nhiệm này thuộc về Hội đồng xét xử khi tổng hợp hình phạt và Kiểm sát viên, trong quá trình kiểm sát điều tra, tham gia phiên tòa, kiểm sát bản án sau phiên tòa, đã không phát hiện được những vi phạm trên. Sau 15 năm vi phạm này mới được phát hiện. Đây là những điểm cần lưu ý quan tâm khi gặp những trường hợp phải tổng hợp hình phạt và cũng cần rút kinh nghiệm chung trong công tác xét xử và kiểm sát xét xử án hình sự.
Thái Hưng