CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

05/12/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
(Kiểm sát) Ở Việt Nam, chủ trương cải cách tư pháp hình sự nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tư pháp hình sự, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong hoạt động tư pháp đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng. Thể chế hóa các yêu cầu cải cách tư pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác tư pháp hình sự...
Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
 
(Kiểm sát) - Ở Việt Nam, chủ trương cải cách tư pháp hình sự nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tư pháp hình sự, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong hoạt động tư pháp đã được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng.
 
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng VKSNDTC phát biểu
tại Hội thảo khoa học về một số định hướng cơ bản, sửa đổi, bổ sung BLTTHS dáp ứng yêu cầu CCTP
Thể chế hóa các yêu cầu cải cách tư pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác tư pháp hình sự. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố, kiện toàn. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được tăng cường.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu. Thực tiễn 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 đã đặt ra một số vấn đề cần quan tâm giải quyết như: 1) Do chưa có sự nhận thức đúng đắn các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội - chức năng bào chữa – chức năng xét xử) nên quy định về vai trò, thẩm quyền của từng chủ thể và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng còn chưa phù hợp. 2) Các thẩm quyền tố tụng chủ yếu tập trung vào Thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án), những người trực tiếp giải quyết vụ án (Điều tra viên, Kiểm sát viên) có thẩm quyền tố tụng rất hạn chế, đang là một trong những nguyên nhân làm kéo dài thời hạn tố tụng và chưa tạo động lực để những chủ thể này nâng cao trình độ, trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp. 3) Vẫn còn tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp Trung ương chủ yếu đi vào giải quyết các vụ án cụ thể, chưa tập trung nhiều cho hoạt động tổng kết, kiểm tra, hướng dẫn các cơ quan tố tụng ở địa phương. 4) Việc tham gia tố tụng của người bào chữa còn chưa thực sự thuận lợi.v.v.
Nhằm kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003; tiếp tục thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp hình sự được đề ra trong các nghị quyết của Đảng hướng đến mục tiêu xây dựng nền tư pháp dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, bảo vệ công lý, Quốc hội khóa XIII giao trách nhiệm cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành hữu quan xây dựng Dự án Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi). Dự kiến, Quốc hội sẽ cho ý kiến lần thứ nhất với Dự án Bộ luật này vào kỳ họp cuối năm 2013. Ban soạn thảo Dự án BLTTHS xác định đây là nhiệm vụ rất quan trọng, là cơ hội tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua. Trên cơ sở đó, đã và đang triển khai nhiều hoạt động phục vụ việc xây dựng Dự án BLTTHS.
Để có được BLTTHS mới thực sự là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước được đề ra trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS cần tập trung vào một số định hướng cơ bản sau đây:
1. Phân định chính xác quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng cho phù hợp với việc phân chia các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
Dù áp dụng mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hay mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, trong tố tụng hình sự luôn luôn tồn tại 3 chức năng cơ bản: Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể theo các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự sẽ giúp cho các hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành có tính chuyên nghiệp cao, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự nước ta chưa bảo đảm tốt yêu cầu này, cùng một chủ thể tố tụng nhưng đang được giao thực hiện nhiều chức năng tố tụng khác nhau hoặc không bảo đảm đầy đủ các điều kiện để chủ thể tố tụng thực hiện tốt chức năng của mình. Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại được giao cả những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội (khởi tố vụ án, xét xử vượt quá giới hạn truy tố của Viện kiểm sát.v.v.). Viện kiểm sát là cơ quan được giao trách nhiệm thực hành quyền công tố, thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa nhưng lại thiếu các cơ chế để bảo đảm mọi yêu cầu của Viện kiểm sát về thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm được thực hiện triệt để. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ chưa có đầy đủ các điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt chức năng bào chữa.
Sửa đổi, bổ sung BLTTHS phải bảo đảm phân định hợp lý quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự; loại bỏ các quy định mâu thuẫn, trùng lắp chức năng tố tụng; bổ sung một cách hợp lý các thẩm quyền tố tụng để mọi chủ thể thực hiện tốt chức năng tố tụng được giao.
2. Thiết kế lại hệ thống thẩm quyền tố tụng cho phù hợp với việc đổi mới hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị; đồng thời, phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp tố tụng
Ở Việt Nam, tư tưởng cải cách tư pháp nhằm phân định ngày càng hợp lý thẩm quyền giữa các cấp tố tụng đã bắt đầu được triển khai thực hiện từ cách đây nửa thế kỷ. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Tòa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử những tội phạm mà pháp luật quy định mức hình phạt đến 2 năm tù. Qua các giai đoạn phát triển, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp cấp huyện từng bước được tăng cường. Theo đó, tăng thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự cho cơ quan tư pháp cấp huyện lên mức 5 năm tù (năm 1981), 7 năm tù (năm 1988) và từ năm 2003 đến nay là 15 năm tù.
Có thể thấy, cải cách tư pháp ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua hướng tới mô hình tư pháp giao chủ yếu thẩm quyền giải quyết các vụ án cụ thể cho cấp huyện và cấp tỉnh đảm nhiệm; cơ quan tư pháp Trung ương tập trung vào công tác kiểm tra, đôn đốc, tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án hình sự chưa đáp ứng yêu cầu nêu trên. Cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương vẫn chủ yếu đi vào giải quyết các vụ án cụ thể; việc rút vụ án thuộc thẩm quyền tố tụng của cấp tỉnh, thậm chí của cấp huyện để giải quyết vẫn còn khá nhiều. Điều này một mặt làm giảm sút vai trò của các cơ quan đầu não trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; mặt khác, tạo ra những xáo trộn không nhỏ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng, nhiều trường hợp không thể theo vụ án đến cùng mà phải ủy quyền cho cấp dưới tiếp tục tiến hành tố tụng.
Nhằm tiếp tục thực hiện tư tưởng phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp tố tụng, tăng cường hơn nữa sự độc lập của tư pháp, một trong những chủ trương quan trọng được đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị đó là tổ chức hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát theo thẩm quyền tố tụng, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, thực hiện mô hình Tòa án, Viện kiểm sát 4 cấp thay cho mô hình 3 cấp như hiện nay. Cụ thể, hệ thống Tòa án nhân dân gồm: Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án, gồm: Viện kiểm sát nhân dân khu vực, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hệ thống Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân cơ bản giữ nguyên mô hình tổ chức như hiện nay, gồm: Cơ quan điều tra Công an cấp huyện, Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh và Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an. Sửa đổi BLTTHS thời gian tới phải đáp ứng yêu cầu thiết kế lại hệ thống thẩm quyền tố tụng của các cấp cơ quan tiến hành tố tụng cho phù hợp với việc đổi mới hệ thống tổ chức các cơ quan này theo yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để hạn chế căn bản tình trạng cơ quan tố tụng cấp trung ương rút án của cơ quan tố tụng cấp dưới lên giải quyết, phát huy vai trò trung tâm chỉ huy của cơ quan tố tụng cấp này trong toàn hệ thống.
3. Nâng cao tính chủ động và chịu trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; phát huy vai trò của các cơ quan quản lý hành chính trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình là chủ trương cải cách tư pháp quan trọng, được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng nhằm khắc phục những bất cập trong công tác tổ chức hoạt động tố tụng hiện nay. Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành đang giải quyết vấn đề theo hướng giao hầu hết các thẩm quyền tố tụng cho người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời, chưa phân định rõ đâu là thẩm quyền hành chính tư pháp và đâu là thẩm quyền tố tụng tư pháp. Hàng ngày, lãnh đạo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải ký hầu hết các văn bản, quyết định tố tụng, trong khi đó những người trực tiếp tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên) chỉ có quyền và trách nhiệm báo cáo, đề xuất lãnh đạo xem xét, quyết định. Thực trạng này là một trong những nguyên nhân dẫn đến kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, dễ tạo sự thiếu tự tin, ỷ lại hoặc sợ trách nhiệm của cấp dưới.
Việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS thời gian tới phải khắc phục căn bản những bất cập trong hoạt động tố tụng nêu trên. Phải phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với thẩm quyền tố tụng tư pháp; xác định đúng vị trí của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là những nhân vật trung tâm của quá trình giải quyết vụ án, từ đó mạnh dạn giao cho họ những thẩm quyền tố tụng cần thiết để chủ động thực hiện nhiệm vụ. Bảo đảm quyền hạn phải đi đôi với nâng cao trách nhiệm, chỉ khi quyền hạn gắn với trách nhiệm thì người tiến hành tố tụng mới thận trọng hơn trong việc xử lý vụ án. Tuy nhiên, việc tăng thẩm quyền cụ thể cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cần tính toán kỹ lưỡng, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tế đội ngũ cán bộ tư pháp nước ta, để trong tương lai chúng ta có một đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng thông thạo, chuyên nghiệp và có trách nhiệm cao.
Liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy điều tra, ở nước ta hiện đang triển khai theo hướng: Cơ quan điều tra chuyên trách tiến hành điều tra hầu hết các vụ án; một số cơ quan khác (Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và một số cơ quan khác trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân) điều tra tội phạm xảy ra trong lĩnh vực quản lý của mình. Thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, số lượng các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra còn quá mỏng, do vậy dẫn đến khả năng phản ứng với tình hình tội phạm còn chậm. Tham khảo kinh nghiệm tổ chức và hoạt động điều tra các nước cho thấy, ngoài cơ quan điều tra chuyên trách, các nước còn tổ chức bộ phận điều tra ở nhiều ngành, lĩnh vực nhằm phản ứng nhanh nhạy với tình hình tội phạm, đồng thời rút ngắn thời gian điều tra, khẩn trương hoàn tất hồ sơ, chuyển Viện Công tố/Viện kiểm sát truy tố. Do đó, sửa đổi, bổ sung BLTTHS thời gian tới cần tổng kết kỹ lưỡng để đề xuất với Đảng, Quốc hội phương án hoàn thiện bộ máy điều tra có đủ khả năng phản ứng nhanh chóng, kịp thời với tình hình tội phạm xảy ra trên tất các các lĩnh vực, địa bàn, vùng miền trong cả nước; nghiên cứu mở rộng phạm vi các cơ quan quản lý hành chính được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (như: Các cơ quan thanh tra chuyên ngành, cơ quan thuế…) nhằm tận dụng biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan này trong phát hiện, xử lý tội phạm, tạo điều kiện để cơ quan điều tra chuyên trách tập trung nguồn lực điều tra những tội phạm nghiêm trọng, phức tạp.
4. Quy định chặt chẽ căn cứ và điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phát huy hiệu quả các biện pháp này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, khắc phục việc lạm dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn
Áp dụng biện pháp ngăn chặn là vấn đề rất quan trọng trong tố tụng hình sự vì góp phần bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhưng đồng thời lại liên quan chặt chẽ đến các quyền tự do, dân chủ của công dân. Chính vì vậy, các Nghị quyết của Đảng luôn yêu cầu phải nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quy định chặt chẽ các căn cứ và điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhất là áp dụng biện pháp tạm giam (biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn). Thể chế hóa các yêu cầu của Đảng, BLTTHS năm 2003 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm quy định chặt chẽ hơn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Tuy nhiên, thực tiễn 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 cũng cho thấy còn những bất hợp lý trong việc quy định và áp dụng các biện pháp này. Bản chất, mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp tạm giam nói riêng là để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, BLTTHS hiện hành lại đang sử dụng sự phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự như một tiêu chí duy nhất mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào để quy định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là không phù hợp với với mục đích đặt ra của biện pháp ngăn chặn, dẫn đến tình trạng lạm dụng biện pháp này trên thực tế hoặc không thể tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt dưới 2 năm tù, kể cả trường hợp những người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.v.v.
Trên cơ sở đó, sửa đổi, bổ sung BLTTHS phải khắc phục cho được những bất cập trong pháp luật hiện hành; thể chế hóa đầy đủ yêu cầu của Đảng để quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và hạn chế việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn; phát huy hiệu quả những biện pháp ngăn chặn có tính chất thay thế biện pháp tạm giam (như: Bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản bảo đảm); đồng thời, phải đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để người phạm tội gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.
5. Đổi mới chế định chứng cứ cho phù hợp với tình hình mới
Sự thành công hay thất bại của quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ chứng cứ và quá trình thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ. Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy, chế định chứng cứ trong BLTTHS năm 2003 đang bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Việc quy định chỉ các cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ là chưa phù hợp, chưa bảo đảm sự công bằng giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự; quy định nguồn chứng cứ được ghi nhận chủ yếu bằng văn bản, vật chứng mà chưa thừa nhận các phương tiện khác (ví dụ phương tiện điện tử ghi âm, ghi hình, thẻ nhớ… có khả năng lưu giữ các dấu vết của tội phạm) là chưa phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện đại cần thiết phải nghiên cứu, đổi mới chế định chứng cứ trong tố tụng hình sự. Việc đổi mới chế định chứng cứ phải xuất phát từ điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ, từ nhu cầu điều tra, xử lý đối với các hành vi phạm tội trong tình hình mới để mở rộng các biện pháp chứng minh và nguồn ghi nhận chứng cứ; khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; bảo đảm phù hợp với việc đổi mới vị trí, vai trò của các chủ thể trong thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quá trình chứng minh vụ án.
6. Đổi mới căn bản trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh tranh tụng
Tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự được xác định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của cải cách tư pháp, đã được đề ra trong nhiều nghị quyết của Đảng và kiên trì thực hiện, với quyết tâm cao. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới yêu cầu: “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”.
Thể chế hóa Nghị quyết số 08-NQ/TW, BLTTHS năm 2003 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng để đáp ứng yêu cầu tăng cường tranh tụng như: Quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa sớm hơn; bổ sung các quy định để bảo đảm Kiểm sát viên nắm chắc tài liệu, hồ sơ, chứng cứ ngay từ giai đoạn điều tra; quy định trách nhiệm của Kiểm sát viên phải đưa ra lập luận với từng ý kiến tranh luận tại phiên tòa… Tuy nhiên, một số quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa còn chưa thật phù hợp, chưa tạo điều kiện để các bên trong tranh tụng thực hiện đầy đủ quyền năng tố tụng của mình.
Vừa qua, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Như vậy, Đảng ta quyết tâm đẩy mạnh tranh tụng và xem đây là giải pháp quan trọng, tạo những bước cải cách có tính đột phá trong hoạt động tư pháp hình sự. Sửa đổi BLTTHS thời gian tới phải thể chế hóa đầy đủ yêu cầu nêu trên của Đảng; khắc phục căn bản những vướng mắc về trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa đang cản trở tranh tụng; thiết kế quy trình, thủ tục thuận lợi nhất để các bên thực hiện việc chứng minh, lập luận cho quan điểm buộc tội hoặc bào chữa của mình.
7. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để đưa thủ tục này trở về vị trí là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự
Giám đốc thẩm là thủ tục xem xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Xuất phát từ tính chất như vậy, cần xác định giám đốc thẩm là thủ tục hết sức đặc biệt, càng ít phải áp dụng càng tốt. Tham khảo kinh nghiệm các nền tư pháp tiên tiến trên thế giới cho thấy, các nước áp dụng mọi biện pháp để bảo đảm nguyên tắc xét xử hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm). Phán quyết của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh, hạn chế việc xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm. Chẳng hạn, ở Canada, Nhật Bản, mỗi năm Tòa án tối cao chỉ xem xét theo trình tự giám đốc thẩm không quá 100 vụ, ở Anh là không quá 50 vụ và chủ yếu xem xét việc áp dụng pháp luật, ít khi xem xét giải quyết các vụ việc cụ thể.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta cho thấy, giám đốc thẩm vẫn đang có nguy cơ trở thành thủ tục thông thường (cấp xét xử thứ ba); số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm ngày một tăng gây áp lực cho các cơ quan tư pháp, thậm chí sức ép của các đơn đề nghị giám đốc thẩm đã đẩy các cơ quan tư pháp trung ương vào các việc có tính sự vụ… Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm trong thời gian tới cần quán triệt đầy đủ yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW quy định chặt chẽ các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, vấn đề tiên quyết là phải áp dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, có như vậy mới bảo đảm hiệu lực thực tế của nguyên tắc xét xử hai cấp. Phấn đấu mỗi kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, mỗi quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao phải trở thành khuôn mẫu cho Viện kiểm sát, Tòa án các địa phương không chỉ trong hiện tại mà cho cả nhiều năm sau này.
8. Đổi mới các thủ tục tố tụng để đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án hình sự, thực hiện nguyên tắc kịp thời, chính xác và tiết kiệm trong hoạt động tư pháp
Một trong những yêu cầu quan trọng của cải cách tư pháp hình sự là phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án, hoạt động tố tụng hình sự phải bảo đảm nguyên tắc kịp thời, chính xác, tiết kiệm. Các tiêu chí này cũng chính là thước đo mức độ hiệu quả của nền tư pháp. Sửa đổi BLTTHS thời gian tới cần bảo đảm mọi hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng phải được ràng buộc chặt chẽ bởi thời hạn tố tụng, bổ sung các thời hạn tố tụng mà pháp luật hiện hành đang có khoảng trống. Sửa đổi, bổ sung thủ tục rút gọn để tăng cường việc áp dụng thủ tục này trên thực tế, bảo đảm việc xử lý vụ án được nhanh chóng, nhưng vẫn bảo đảm tính chính xác, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thông qua đó góp phần giảm tải số lượng án, tạo điều kiện để các cơ quan tư pháp tập trung giải quyết những vụ án nghiêm trọng, phức tạp.
9. Sửa đổi, bổ sung các quy định để tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự thực chất là việc các quốc gia hỗ trợ nhau trong việc giải quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Phạm vi hợp tác có thể chỉ là giúp quốc gia yêu cầu thực hiện một hoặc một số hoạt động tố tụng hoặc có thể trợ giúp giải quyết toàn bộ vụ án hình sự. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi BLTTHS là phải tạo lập đầy đủ cơ sở pháp lý cho hoạt động tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm; khắc phục cho được những khoảng trống trong pháp luật hiện hành liên quan đến trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.v.v. trong quá trình thực hiện các ủy thác tư pháp về hình sự. Đồng thời, cũng cần phân định rõ những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTHS, những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tương trợ tư pháp.
10. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng hình sự Giám sát hoạt động tư pháp nói chung và giám sát hoạt động tư pháp hình sự nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết vì thiếu giám sát sẽ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực nhà nước. Nguy hiểm hơn, sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong trường hợp này sẽ gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của con người, ảnh hưởng đến công lý và công bằng xã hội. Trong điều kiện phấn đấu xây dựng nền tư pháp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, việc tăng cường các cơ chế giám sát hoạt động tư pháp là một bảo đảm quan trọng để các cơ quan tư pháp thực sự là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân. Chính vì vậy, Đảng ta rất coi trọng việc hoàn thiện các cơ chế giám sát hoạt động tư pháp. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 nêu rõ “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật… Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp. Công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án và giám sát việc ban hành các văn bản pháp luật về lĩnh vực tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 tiếp tục yêu cầu “Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp… Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp…”. Văn kiện Đại hội XI nhấn mạnh “Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”.
Sửa đổi, bổ sung BLTTHS thời gian tới phải quán triệt đầy đủ các chủ trương, yêu cầu của Đảng về tăng cường sự giám sát trong hoạt động tư pháp. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát với tính chất là một kênh giám sát trực tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Sửa đổi, bổ sung các quy định để tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát của Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới thông qua thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Bổ sung thủ tục công khai các quyết định tố tụng để tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận công lý và tăng khả năng giám sát của xã hội đối với lĩnh vực tư pháp hình sự. 
Tìm kiếm