CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự và án hành chính

26/10/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
(Kiểm sát online) - Trong các ngày 24, 25 và 26/10/2012 tại thành phố Đà Nẵng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức Hội nghị công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự và án hành chính. Tham dự và chỉ đạo Hội nghị đồng chí Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Phó Viện trưởng VKSNDTC; dự Hội nghị còn có đại diện Lãnh đạo các Cục, Vụ, Viện: Vụ 5, Vụ 12, Vụ 7, Vụ 9, Vụ 10, Vụ 11, Viện phúc thẩm 1, 2, 3, Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, Viện Khoa học kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, Báo Bảo vệ pháp luật, Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát Hà Nội và phân hiệu tại thành phố Hồ Chí Minh...
Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ, việc dân sự và án hành chính
(Kiểm sát online) - Trong các ngày 24, 25 và 26/10/2012 tại thành phố Đà Nẵng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức Hội nghị công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự và án hành chính. Tham dự và chỉ đạo Hội nghị đồng chí Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Phó Viện trưởng VKSNDTC; dự Hội nghị còn có đại diện Lãnh đạo các Cục, Vụ, Viện: Vụ 5, Vụ 12, Vụ 7, Vụ 9, Vụ 10, Vụ 11, Viện phúc thẩm 1, 2, 3, Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, Viện Khoa học kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, Báo Bảo vệ pháp luật, Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát Hà Nội và phân hiệu tại thành phố Hồ Chí Minh; đại diện Lãnh đạo Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố; đại diện Lãnh đạo Phòng kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự, Phòng kiểm sát giải quyết án hành chính và Phòng khiếu tố của 63 tỉnh, thành phố với số lượng trên 330 đại biểu.
 
Phó Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Thị Thủy Khiêm phát biểu tại Hội nghị
Tại Hội nghị đồng chí Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Phó Viện trưởng VKSNDTC đã quán triệt nội dung Hội nghị; đặc biệt, đồng chí Phó Viện trưởng đánh giá cụ thể về một số vấn đề sau:
Về nội dung cụ thể của Hội nghị, đồng chí Phó Viện trưởng yêu cầu các đại biểu dự Hội nghị cần quán triệt, tiếp thu để tổ chức thực hiện tốt Thông tư liên tịch số 03 và 04 của VKSNDTC và TANDCT vừa được ban hành, Quy chế công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, Quyết định số 556 của Viện trưởng VKSNDTC và ban hành các mẫu văn bản tố tụng trong công tác kiểm sát các vụ việc dân sự, Quy chế nghiệp vụ về công tác kiểm sát giải quyết án hành chính....
Một là, qua gần một năm thực hiện BLTTDS (sửa đổi), cho thấy quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát quy định trong pháp luật đã có sự thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự. Bước đầu thực hiện BLTTDS sửa đổi tuy còn nhiều khó khăn nhưng Viện kiểm sát các địa phương đã nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Hai là, về công tác quản lý, điều hành của Viện kiểm sát các cấp trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự cần tiếp tục đổi mới: Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ, kịp thời trả lời thỉnh thị, giải đáp vướng mắc cho Viện kiểm sát cấp dưới; phân công Kiểm sát viên, cán bộ kiểm sát bản án, quyết định; sổ sách thụ lý, giải quyết vụ việc đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.
 
Đ/c Trần Đình Khánh, Vụ trưởng Vụ 5  báo cáo kết quả thực hiện BLTTDS
Ba là, Viện kiểm sát các địa phương tích cực xây dựng các chuyên đề về kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án về dân sự; kịp thời thông báo rút kinh nghiệm đối với những vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm bị cấp phúc thẩm sửa, hủy. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa và phát biểu quan điểm theo quy định của BLTTDS và hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bước đầu, khẳng định vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, trong công tác kiểm sát, Viện kiểm sát các cấp gặp khó khăn, nhất là thời điểm liên ngành chưa ban hành Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT ngày 01/8/2012 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao; các văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTDS (sửa đổi), bổ sung năm 2011, như Thông tư liên tịch, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chưa ban hành kịp thời; nhiều Viện kiểm sát địa phương thiếu biên chế cán bộ, Kiểm sát viên; kỹ năng, kinh nghiệm công tác kiểm sát của một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế. Mặt khác, Kiểm sát viên phải tập trung nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên tòa, phiên họp nên chưa chú trọng đúng mức trong việc kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự; công tác phối hợp trong kiểm sát bản án, quyết định chưa chặt chẽ; nên việc phát hiện vi phạm và ban hành kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm của nhiều Viện kiểm sát chưa đạt chỉ tiêu...
 
Các đại biểu dự Hội nghị
Tại Hội nghị đồng chí Trần Đình Khánh, Vụ trưởng Vụ kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự báo cáo kết quả thực hiện BLTTDS (sửa đổi) từ đầu năm đến nay, báo cáo những nội dung cơ bản của Quy chế kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự mới được ban hành. Đồng chí Vụ trưởng đã nêu tổng hợp 24 vướng mắc qua thực tiễn thực hiện BLTTDS (sửa đổi) và một số văn bản pháp luật, cụ thể là:
1. Về kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo quy định tại Điều 169, Điều 170 BLTTDS quy định: Trong thời hạn 03 ngày làm việc (ba ngày), kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Viện kiểm sát địa phương cho rằng thực tế Tòa án chỉ gửi cho Viện kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện với nội dung ngắn gọn, chung chung. Muốn xác định việc trả lại đơn khởi kiện có đúng pháp luật hay không, Viện kiểm sát có thể phải mời đương sự lên để lấy lời khai, kiểm tra chứng cứ, tài liệu; vì vậy, thời hạn 03 ngày để có kiến nghị là không thể thực hiện được.
2. Tại Điều 165 BLTTDS quy định: Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Quy định như trên có một số trường hợp không thực hiện được. Ví dụ, ông A khởi kiện ông B về yêu cầu chia thừ kế nhà ở; theo đó, kèm theo đơn khởi kiện, ông A phải có bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà đang tranh chấp. Nhưng ông B lại đang quản lý bản chính các giấy tờ về sở hữu căn nhà nên ông A không thể cung cấp cho Tòa án được. Đề nghị Viện kiểm sát tối cao hướng dẫn cụ thể vấn đề này. 
3. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm, theo Điều 21 BLTTDS, nhưng không thông báo để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Những trường hợp này, sau khi xét xử, Viện kiểm sát mới phát hiện được Tòa án vi phạm pháp luật tố tụng, nhưng về đường lối (nội dung) Tòa án giải quyết đúng pháp luật, Viện kiểm sát có nên kháng nghị hủy bản án sơ thẩm?
Một số trường hợp Tòa án lấy lời khai của đương sự, nhân chứng… Nhưng cho rằng đương sự, nhân chứng do không biết chữ (chủ yếu là các vụ án ly hôn) nên Thư ký phải ghi hộ lời khai; đây không phải là hoạt động thu thập chứng cứ, vì vậy không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm theo Điêu 21 BLTTDS. Cần có sự nhận thức thống nhất về việc thu thập chứng cứ của Tòa án.
4. Qua thực tiến xét xử một số vụ án xin ly hôn, có tranh chấp quyền sử dụng đất. Trường hợp này, Viện kiểm sát có tham gia phiên tòa sơ thẩm theo Điều 21 BLTTDS?  
5. Theo quy định tại Điều 195 BLTTDS thì trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có tên Kiểm sát viên (kể cả Kiểm sát viên dự khuyết, nếu có) tham gia phiên tòa; khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 04/TTLT-VKSNDTC-TANDTC: Trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa, phiên họp thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm thông báo thụ lý vụ việc dân sự theo Điều 174, 257, 331 BLTTDS, Viện kiểm sát phải gửi cho Tòa án văn bản phân công Kiểm sát viên… Quy định như trên là không khả thi, khó thực hiện. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở văn bản thông báo thụ lý của Tòa án thì Viện kiểm sát chưa thể xác định được vụ án nào Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo quy định của Điều 21 BLTTDS.
6. Khi áp dụng các quy định mới ngoài các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa (Điều 85 BLTTDS), thực tiễn có nhiều trường hợp phát sinh chưa được hướng dẫn cụ thể, như: Trường hợp nào là tranh chấp đất đai bắt buộc phải qua hòa giải ở cơ sơ; trường hợp Tòa án xác minh địa chỉ của đương sự, tình trạng hôn nhân, các trương hợp này Tòa án, Viện kiểm sát đều lúng túng về tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát.
7. Trường hợp Luật sư tham gia và được Tòa án chấp nhận là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; Luật sư có quyền nghiên cứu hồ sơ, sao chụp tài liệu…Nhưng hồ sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát nghiên cứu để tham gia phiên tòa và Luật su yêu cầu được nghiên cứu hồ sơ. Trường hợp này, Viện kiểm sát giải quyết theo quy định nào?
8. Tại Điều 94 BLTTDS quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời… thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong thực tế, nếu cơ quan, đơn vị không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ thì Tòa án không thể đưa vụ án ra giải quyết và phải tạm đình chỉ với lý do chờ kết quả phúc đáp của cơ quan, tổ chức. Vạy, trường hợp này có xử lý được cơ quan, tổ chức hay không ? Nếu xử lý theo theo quy định pháp luật nào?
9. Theo quy định của BLTTDS, tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên chỉ được phát biểu về tố tụng, vậy, Kiểm sát viên có quyền hỏi để làm rõ nội dung của vụ kiện không ?; những vụ án có vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm mà Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa hoặc có tham gia nhưng không phát hiện được vi phạm thì Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm có được phát biểu ý kiến về những vi phạm đó hay không?
10. Điều 269 BLTTDS quy định: Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và bị đơn đồng ý nhưng vụ án lại bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Trường hợp này, kháng nghị của Viện kiểm sát được giải quyết thế nào?
11. Điều 256 BLTTDS quy định trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm thì Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng nghị đã hết. Thực tế ở địa phương chưa có trường hợp nào khi vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm trong thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát. Do đó, nhiều trường hợp tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, qua nghiên cứu hồ sơ Viện kiểm sát cấp phúc thẩm mới phát hiện Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng mà Viện kiểm sát cấp huyện không phát hiện được để kháng nghị, nhưng Viện kiểm sát cấp tỉnh lại không được bổ sung, thay đổi kháng nghị.
12. Quá trình tham gia phiên tòa, khi thấy vụ kiện có nhiều tình tiết phát sinh chưa rõ quan điểm giải quyết cho nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử cho hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung. Vấn đề này chưa có điều luật nào quy định.
13. Điều 288 BLTTDS quy định về trường hợp đơn đề nghị giám đốc thẩm được kéo dài thời hạn xem xét kháng nghị. Tuy nhiên, để xác định thế nào là bản án có “sai lầm nghiêm trọng” chưa có hướng dẫn cụ thể, vẫn còn phụ thuộc bởi ý chí chủ quan của cá nhân Thẩm phán; mặt khác, cần hướng dẫn quy định đương sự có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 BLTTDS và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị. Nếu đơn đề nghị đã được giải quyết của người có thẩm quyền kháng nghị, thì vẫn phải giải quyết tiếp sẽ mất thời gian và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác.
14. Đối với trường hợp Viện kiêm sát có công văn yêu cầu ạm hoãn thi hành án để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm nhưng sau đó không kháng nghị thì có phát hành công văn thông báo cho cơ quan thi hành án dan sự biết không?
15. Tại Điều 3 Chỉ thị số 04 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự, hành chính, quy định phiếu kiểm sát phải có chữ ký của Kiểm sát viên và lãnh đạo Viện kiểm sát cấp sơ thẩm, sau đó chuyển bản án, quyết định kèm theo phiếu kiểm sát cho Viện kiểm sát cấp trên. Tại đây, sau khi nghiên cứu, Kiểm sát viên, lãnh đạo Viện phải ký tiếp vào phiếu kiểm sát. Đối với Viện kiểm sát số lượng thụ lý nhiều (như Viện kiểm sát thành phố Hồ Chí Minh) thì việc Kiểm sát viên, Lãnh đạo Viện ký đầy đủ phiếu kiểm sát là khó thực hiện được.
16. Hiện nay còn áp dụng Kết luận 2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hướng dẫn số 15 về lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự?
17. Cơ quan có thẩm quyền cần khẩn trương ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện Điều 32a BLTTDS.
18. BLTTDS và Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) không cụ thể, chưa sát với thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự nên Tòa án có sự nhận thức và áp dụng không thống nhất; việc quy định Viện kiểm sát chỉ có quyền kiến nghị và thời hạn kiến nghị việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT là quá ngắn (03 ngày) nên một số trường hợp không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
19. Theo quy định tại điểm b tiểu mục 4.2 Mục 4 Phần III Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Trong thời hạn nguyên đơn có quyền kháng cáo mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện và bị đơn có văn bản đồng ý, các đương sự khác không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm để mở phiên tòa. Quy định này không phù hợp với quy định tại Điều 242 BLTTDS về tính chất của xét xử phúc thẩm; như vậy, có thể có Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên tòa để xét xử. Cần có hướng dẫn về quy định trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong thời hạn kháng cáo.
20. Về khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04 quy định “Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp… trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Quy định như trên là không phù hợp trong trường hợp Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm chỉ trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới (không cần hồ sơ vụ án). Khi có kháng nghị, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm để xét xử; vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm sẽ không chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đã kháng nghị để nghiên cứu tham gia phiên tòa.
Quy định tại khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04 đã hạn chế quyền yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để xem xét kháng nghị của Viện kiểm sát, nhất là trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm cần báo cáo Viện kiểm sát cấp có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. 
21. Điều 35 BLTTDS quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ: “Tòa án án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức…”; nhiều trường hợp bị đơn lợi dụng quy định này đã thay đổi nơi cư trú nhằm kéo dìa thời gian giải quyết vụ án. Cần có hướng dẫn phù hợp để tránh tình trạng kéo dài của bên phải thực hiện nghĩa vụ dân sự.
22. Vấn đề định giá tài sản trong các vụ tranh chấp tài sản. Hiện nay, theo quy định của pháp luật, cho pháp sử dụng kết quả định giá của công ty định giá tư nhân; các công ty này định giá thường không chính xác. Vì vậy, việc Tòa án giải quyết tranh chấp tài sản trên cơ sở định giá của các công ty tư nhân không bảo đảm chính xác, khách quan.  
23. Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định thời hạn Tòa án sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định, có một số vụ, việc Viện kiểm sát phát hiện vi phạm và quyết định kháng nghị. Sau đó, Tòa án ra thông báo sửa chữa, bổ sung, đính chính bản án về các vấn đề mà Viện kiểm sát đã kháng nghị nên trường hợp này, kháng nghị của Viện kiểm sát không được chấp nhận.
24. Trong thực tế nhiều quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án không có căn cứ theo quy định tại Điều 189 BLTTDS, do xác định việc tạm đình chỉ vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm. Nhưng sau đó, Tòa án lại đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp này Viện kiểm sát phải xử lý như thế nào cho phù hợp?
Đồng chí Vụ trưởng cũng đã thông tin đến toàn thể Hội nghị về những nội dung liên quan đến trách nhiệm nghiên cứu ban hành các văn bản hướng dẫn của liên ngành Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ngoài các Thông tư liên tịch số 03, 04 và các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC vừa ban hành, hiện nay TANDTC và VKSNDTC còn tiếp tục nghiên cứu xây dựng các thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Điều 32a, Điều 33, Điều 35, Điều 85 Điều 168, Điều 189… của BLTTDS. Vụ 5 sẽ phối hợp với các đơn vị có liên quan tiếp tục tổng hợp vướng mắc để tham mưu cho Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện các quy định BLTTDS; sửa đổi quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về lập hồ sơ kiểm sát; phối hợp với các Viện phúc thẩm 1, 2, 3 tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm về dân sự, hành chính.
Tại Hội nghị đồng chí Hoàng Thị Quỳnh Chi, Phó Viện trưởng Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC đã trình bày những nội dung cơ bản của Thông tư liên tịch số 04/TTLT-VKSNDTC-TANDTC về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Cũng tại Hội nghị Đồng chí Nguyễn Minh Đức, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ VKSNDTC phát biểu về vấn đề sắp xếp bộ máy, tăng cường cán bộ, Kiểm sát viên để đảm nhiệm công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự và án hành chính như sau:
Vụ tổ chức cán bộ đã tham mưu cho Lãnh đạo VKSNDTC kiện toàn tổ chức, hoàn thiện đề án về nhân sự, bảo vệ đề án về tăng biên chế; đối với Vụ 5 đã bổ nhiệm thêm 03 đồng chí Kiểm sát viên bổ sung cho phía Nam; đối với Vụ 12 đã thành lập 03 Phòng và xây dựng Quy chế sửa đổi để tăng số phòng lên thành 04 phòng. Về tổ chức bộ máy đã đạt được một số kết quả: Vụ 5 đã sửa đổi, bổ sung Quy chế tổ chức hoạt động, thành lập Phòng tại phía Nam; Vụ 12: Đã thành lập 3 phòng, sửa đổi, bổ sung Quy chế hoạt động để tăng số phòng lên 4 phòng; các đơn vị tại Viện kiểm sát nhân tối cao đã bố trí, giao nhiệm vụ cho các đơn vị, bộ phận rõ ràng hơn; Viện kiểm sát nhân dân các địa phương đã chú ý phân công, thành lập phòng mới chuyên trách về dân sự và hành chính - lao động - kinh tế; từ lúc chỉ có 13 tỉnh, thành phố nay đã có 38 tỉnh, thành phố có Phòng 12. Nơi nào đảm bảo đủ các tiêu chí 75 vụ án/năm; có đủ 3 cán bộ mới đủ điều kiện thành lập phòng 12. Viện kiểm sát nhân tối cao đã hướng dẫn các viện kiểm sát nhân dân địa phương, các viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn viện kiểm sát nhân dân cấp huyện bố trí, phân công cán bộ theo hướng ổn định và bảo đảm chất lượng cán bộ chuyên trách.
Một số khó khăn, vướng mắc trong công tác tổ chức cán bộ trong thời gian qua cho thấy: Căn cứ giữa số lượng án để phân bổ nhân lực, đây là vấn đề khó khăn do số lượng án tăng; tổ chức bộ máy hiện nay cũng chưa đáp ứng yêu cầu; số biên chế hiện được tăng chỉ giành cho VKS cấp huyện; việc tuyển dụng nguồn cho các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân tối cao gặp khó khăn: số cán bộ mới phải đào tạo, số chuyển đi nay chuyển về cũng gặp khó khăn khi tiếp cận công việc; số đào tạo lại thì luân chuyển, kinh phí đào tạo cũng gặp khó khăn...
Trong thời gian tới Vụ TCCB tiếp tục thực hiện Đề án theo Nghị quyết số 821/2009/NQ-UBTVQH. Đồng chí Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ cũng đề nghị Viện kiểm sát nhân dân các địa phương cần xác định lại số lượng án để xây dựng đề án biên chế; rà soát lại khối lượng cán bộ, công việc để bố trí hợp lý. Đề nghị tuyển dụng cán bộ đảm bảo chất lượng đầu vào; thực hiện tốt chủ trương về đào tạo...
Tại Hội nghị đã có 10 ý kiến phát biểu tập trung thảo luận về những khó khăn, vướng mắc qua gần một năm thực hiện BLTTDS sửa đổi và một số kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
Kết luận Hội nghị đồng chí Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Phó Viện trưởng VKSNDTC đã nhấn mạnh một số vấn đề sau:
1. Lãnh đạo VKSND các cấp, tòa thể cán bộ, KSV cần tiếp tục quán triệt, nghiên cứu để nắm vững những nội dung mới của BLTTDS (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như nội dung Quy chế nghiệp vụ của Ngành; nhận thức và thực hiện đúng đắn, nghiêm túc thẩm quyền trách nhiệm của mình để nâng cao hơn nữa hiện quả công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự - cần xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của tất cả các cấp VKS. Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, việc quy định mở rộng thẩm quyền của VKS trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự đã thể hiện Đảng và Nhà nước đánh giá cao vai trò, trách nhiệm quan trọng của VKSND trong hệ thống cơ quan tư pháp; thể hiện sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước đối với VKS. Ngành Kiểm sát chúng ta không chỉ có vai trò quan trọng khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính nghiêm minh của các hoạt động tư pháp nói chung và trong lĩnh vực tố tụng dân sự nói riêng. Đây là vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm mà VKS phải cố gắng thực hiện cho thật tốt để xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, đáp ứng được sự mong mỏi của người dân.
2. Các đơn vị trong toàn Ngành tiếp tục đẩy mạnh tiến độ, hoàn thành các nhiệm cụ đã được phân công theo Chỉ thị số 06/2011/CT-VKSTC và Chỉ thị công tác hàng năm của Viện trưởng VKSNDTC.
Các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSNDTC cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn nghiệp vụ, giải đáp kịp thời các vấn đề vướng mắc cho các VKS địa phương để giúp các đơn vị nhận thức và thực hiện thống nhất các quy định của pháp luật và Quy chế nghiệp vụ của Ngành. Đồng thời, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với TANDTC và các Bộ, ngành liên quan để khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy đinh của BLTTDS (sửa đổi) để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho công tác giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của ngành Kiểm sat nói riêng.
Viện kiểm sát các cấp tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ có đủ năng lực để thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ; tiếp tục chú trọng việc xây dựng đội ngũ KSV trong sạch, vững mạnh, tinh thông về nghiệp vụ, có bản lĩnh nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao để đảm đương nhiệm vụ; cần quan tâm chú trọng xây dựng đội ngũ chuyên gia, chuyên sâu trong một số lĩnh vực như giải quyết tranh chấp về đất đai, nhà ở, sở hữu về tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài...
. Trên cơ sở kết quả Hội nghị này, yêu cầu các đơn vị trực thuộc VKSNDTC và các VKS địa phương tiếp tục rà soát, kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong thời gian qua nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và những biện pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc để làm tốt hơn nữa trách nhiệm, thẩm quyền của mình trong công tác kiểm sát dân sự; đồng thời, căn cứ vào tình hình thực tế của mỗi đơn vị, địa phương để xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự trong thời gian tới.
Lãnh đạo VKSNDTC giao nhiệm vụ cho Vụ 5 chủ trì, phối hợp với Viện khoa học kiểm sát và các đơn vị có liên quan tổng hợp tất cả những vướng mắc, bất cập của các đơn vị trong toàn Ngành để có hướng dẫn, giải đáp, tháo gỡ kịp thời hoặc báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật.
Tiếp theo tin Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Luật Tố tụng hành chính
Huy Nguyên - Hà Thái
Tìm kiếm