CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

TIN VỀ KHÁNG NGHỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT

23/06/2010
Cỡ chữ:   Tương phản
Kháng nghị phúc thẩm số 06/2010/QĐ- KNPT ngày 16/6/2010 đối với phần quyết định hình phạt tù của bản án HSST số 13/2010/HSST ngày 02/6/2010 của TAND tỉnh Tuyên Quang đã xét xử bị cáo Hoàng Văn Tá, sinh năm 1981, trú tại Thôn Nà Chẻ, Yên Hoa, Na Hang, Tuyên Quang về tội “Giết người”.
TIN VỀ KHÁNG NGHỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 
1. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Qụang
 Kháng nghị phúc thẩm số 06/2010/QĐ- KNPT ngày 16/6/2010 đối với phần quyết định hình phạt tù của bản án HSST số 13/2010/HSST ngày 02/6/2010 của TAND tỉnh Tuyên Quang đã xét xử bị cáo Hoàng Văn Tá, sinh năm 1981, trú tại Thôn Nà Chẻ, Yên Hoa, Na Hang, Tuyên Quang về tội “Giết người”. Bản án áp dụng khoản 1 Điều 93, Điều 18, Điều 52, các điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Tá 7 năm 6 tháng tù.
Lý do kháng nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khoẻ của người khác và làm mất trật tự trị an địa phương. Khi Tá nhằm vào cửa nhà Nái để bắn đã xác định trong nhà Nái còn có vợ và hai con của Nái và cháu Hiền nhưng vẫn dùng súng kíp bắn với khoảng cách 10 m. Bản án không áp dụng điểm a khoản 1 Điều 93, Điều 47 Bộ luật hình sự, quyết định mức hình phạt nhẹ hơn so với hành vi của bị cáo cho nên không đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa tội phạm.
Kháng nghị đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao áp dụng điểm a,l khoản 1 Điều 93, Điều 18, Điều 52, Điều 47; các điểm Bộ luật hình sự b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự xử tăng hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn Tá.
 
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên
 Kháng nghị phúc thẩm số 05/2010/QĐ- KNPT ngày 16/6/2010 về phần quyết định hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thanh Tùng và thời gian thử thách đối với bị cáo Trần Trọng Lộc tại bản án HSST số 16/2010/HSST ngày 19/5/2010 của TAND Huyện Phú Hòa đã xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Tùng về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; bị cáo Trần Trọng Lộc về tội “Điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ”.
Lý do kháng nghị: Bị cáo Tùng điều khiển máy cày là loại xe máy chuyên dùng gây tai nạn nghiêm trọng nhưng bản án sơ thẩm lại cấm bị cáo hành nghề lái xe ô tô là vi phạm Điều 36 Bộ luật hình sự và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo sau khi chấp hành xong hình phạt tù .
Về thời gian thử thách đối với bị cáo Trần Trọng Lộc: bản án xử phạt Trần Trọng Lộc 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, trong khi bị cáo không thuộc trường hợp đặc biệt để có thể ấn định thời gian thử thách ngắn hơn theo quy định tại tiểu mục 6.4 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC: “Khi cho người bịxử phạt tù hưởng án treo,trong mọi trường hợp Toà án phải ấn định thời gian thử thách từ 01 đến 05 năm và phân biệt như sau:
a, Trường hợp người bị xử phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm;
c, Trong trường hợp đặc biệt thì Tòa án có thể ấn định thời gian thử thách ngắn hơn mức được hướng dẫn tại điểm a, b tiểu mục 6.4 này, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án”.
Kháng nghị đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Cấm bị cáo Nguyễn Thanh tùng điều khiển xe máy chuyên dùng (máy cày) trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù; Tăng thời gian thử thách đối với bị cáo Trần Trọng Lộc từ 18 tháng lên 24 tháng theo đúng quy định của pháp luật.
 
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai
 Kháng nghị Giám đốc thẩm số 07/QĐ/KNGĐT-P5 ngày 11/6/2010 đối với Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số 44A/2009/QĐST-DS ngày 18/12/2009 của TAND TP. Pleiku đã giải quyết vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh, SN 1976 ở phường Trà Bá, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và bị đơn Trần Thị Bích Cẩm, SN 1976 ở tổ 13,thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Lý do kháng nghị: Hồ sơ vụ án không có Quyết định của Chánh án phân công Thẩm phán, Thư ký tòa nhưng đã tiến hành giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 40, Điều 172, Điều 173 Bộ luật tố tụng dân sự. Ngoài ra Quyết định còn có một số vi phạm trong việc chấp nhận người được ủy quyền thực hiện công việc ngoài phạm vi được ủy quyền, vi phạm quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự
Kháng nghị đề nghị TAND tỉnh Gia Lai xét xử Giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số số 44A/2009/QĐST-DS ngày 18/12/2009 của TAND TP. Pleiku để giải quyết lại theo qui định của pháp luật.
 
 
4.Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắc Lắc
Kháng nghị phúc thẩm số 07/QĐ-KNPT-P3 ngày 16/6/2010 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 08/2010/HSST ngày 21/5/2010 của TAND huyện M’Đrăk đã xét xử bị cáo Trương Dũng, sinh năm 1966, trú tại khối 5, phường Tân Hòa, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ’’
Lý do kháng nghị: án sơ thẩm cho bị cáo được hưởng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là không thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật vì: hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng (làm chết 01 người), nguyên nhân tai nạn xảy ra lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Việc án sơ thẩm cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là không đạt đựơc mục đích cải tạo giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
Kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm xử phạt hình phạt tù, không cho bị cáo được hưởng án treo.
 
 
5. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước
Kháng nghị Giám đốc thẩm số 01/QĐ/KNGĐT-P5 ngày 15/6/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2009/DSST ngày 21/5/2010 của TAND huyện Bù Đốp đã giải quyết vụ kiện “Tranh chấp tài sản thừa kế ” giữa nguyên đơn Nguyễn Trường Giang, SN 1955 ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh và bị đơn Nguyễn Văn Thống, SN 1957 ở xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Lý do kháng nghị: - Bản án đã không tuyên số đương sự được hưởng quyền sử dụng đất phải bồi hoàn giá trị tài sản có trên đất cho bị đơn Nguyễn Minh Thống là vi phạm điểm C, khoản 1, phần II của Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 03/5/1990 của TANDTC, VKSNDTC, Tổng cục quản lý ruộng đất về “Hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất”
- Khi ông Nguyễn Văn Xuân và bà Nguyễn Thị Hoa chết có để lại cho 04 người con là ông Giang, ông Nhất, ông Thống và bà Hồng 01 thửa đất có diện tích 6.155m2 . đất đã được UBND huyện Lộc Ninh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1989 (sổ trắng) đứng tên ông Nguyễn văn Xuân, đến năm 2000 ông Nguyễn Minh Thống tự ý làm thủ tục đề nghị và được UBND huyện Lộc Ninh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Thống là cấp sai đối tượng. Bản án đã không tuyên đề nghị UBND huyện Lộc Ninh thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 435/QSDĐ/20/2000/QĐ-UB ngày 14/4/2000 đã cấp cho ông Thống để có cơ sở đăng ký, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định hiện hành.
- Khi cha, mẹ chết, ông Thống là người trực tiếp quản lý, sử dụng 6.155m2 đất nhưng Bản án đã không tuyên buộc bị đơn Thống phải có nghĩa vụ chuyển giao đất cho từng người được hưởng quyền sử dụng đất theo bản án để họ đi đăng ký chủ quyền và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 5. Điều 46; khoản 5, Điều 49 và Khoản 1 Điều 129 của Luật đất đai 2004.
Kháng nghị đề nghị TAND tỉnh Bình Phước xét xử Giám đốc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ về cho TAND huyện Bù Đốp xét xử sơ thẩm lại.
 
 
6. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang
* Kháng nghị Giám đốc thẩm số 1419/QĐ-KNGĐT.P5 ngày 16/6/2010 đối với Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số 28/2010/QĐST-DS ngày 21/4/2010 của TAND thị xã Châu Đốc đã giải quyết vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” giữa nguyên đơn Võ Thị Ngọc Thảo, SN 1965 ở phường Châu Phú A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang và bị đơn Tăng Kim Trưởng, SN 1959 ở phường Châu Phú B, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang
Lý do kháng nghị: Tại Biên bản hòa giải thành lập ngày 13/4/2010 thì bà Trưởng tự nguyện chịu 5.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với khoản 3 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và khoản 11 Điều 27 Pháp lệnh  số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Khi ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, TAND thị xã Châu Đốc chỉ buộc bà Trưởng phải chịu 1.250.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Ngày 26/4/2010, TAND thị xã Châu Đốc ra thông báo sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định với nội dung: bà Trưởng phải chịu 2.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tòa cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo qui định tại khoản 2 Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự, vì Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không thể hiện có việc xem xét miễn án phí cho đương sự.
Kháng nghị đề nghị TAND tỉnh An Giang xét xử Giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số 28/2010/QĐST-DS ngày 21/4/2010 của TAND thị xã Châu Đốc, giao hồ sơ về cho TAND thị xã Châu Đốc xét xử lại theo thủ tục chung.
* Kháng nghị Phúc thẩm số 1428/QĐ/KNPT-P5 ngày 17/6/2010 đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2010/ DS- ST ngày 28/5/2010 của TAND tỉnh An Giang đã giải quyết vụ kiện “Tranh chấp chia di sản thừa kế” giữa nguyên đơn Vi Thị Liên, SN 1952 ở phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ và các đồng nguyên đơn với bị đơn Lưu Minh Huê, SN 1964 ở phường Châu Phú A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang và các đồng bị đơn.
Lý do kháng nghị: Bản án sơ thẩm tuyên buộc các đồng thừa kế của bà Thái Ngọc Anh và thừa kế thế vị của ông Hai phải chịu 18.920.281đ, các đồng thừa kế của bà Thái Ngọc Cần phải chịu 30.952.629đ án phí dân sự sơ thẩm là không chính xác.
Kháng nghị đề nghị Tòa phúc thẩm TANDTC xét xử phúc thẩm vụ kiện theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm số 13/2010/ DS- ST ngày 28/5/2010 của TAND tỉnh An Giang về án phí.
 
7. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp
Kháng nghị phúc thẩm Số 116 /KSĐT-KTngày 11/6/2010đối với bản án Hình sự sơ thẩm số 13/HSST ngày 02,03/6/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã xét xử các bị cáo Huỳnh Vũ Thuận, Huỳnh Thanh Bình về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Đưa hối lộ; Phạm Cụng Hải về tội Nhận hối lộ.
Lý do kháng nghị:Mứchình phạt đối với bị cáo Huỳnh Vũ Thuận là quá nhẹ không tương xứng với mức độ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng mà bị cáo Thuận đó gây ra và không thể hiện tính răn đe giáo dục phòng ngừa chung  trong vụ án này bị cáo Thuận là người chủ mưu, hưởng lợi nhiều nhất cụ thể:
 
 Đối với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chính bị cáo Thuận là người rủ rê lôi kéo bị cáo Bình vào con đường phạm tội và bị cáo đó chiếm đoạt được 3.795.000.000 đồng trong tổng số tiền vay của 21 người bị hại là 6.600.000.000. Chính hành vi phạm tội của bị cáo Thuận đó gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng đó là: Làm cho 13 người bị hại còn lại, lâm vào hoàn cảnh hết sức khó khăn và có khả năng họ sẽ bị trắng tay, do bị Ngân hàng phát mại tài sản thế chấp vì không trả được số tiền vay 2.315.000.000 đồngmà bị cáo Thuận chiếm đoạt, mức hình phạt 12 năm tù mà bản án sơ thẩm tuyên đối vơi bị cáo Thuận về tội Lừa đảo là quá nhẹ không tương xứng với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà bị cáo gây ra cho các người bị hại.
 
 Đối với tội Đưa hối lộ, cũng chính bị cáo Thuận là người lôi kéo bị cáo Bình tham gia vào việc Đưa hối lộ. Trong tổng số tiền đưa hối lộ 137.000.000 đồng cho Hải, thì bị cáo Bình chỉ trực tiếp đưa cho Hải 12.000.000 đồng theo sự phân công của Thuận, nên bị cáo Bình phải chịu mức hình phạt 06 năm tù, trong lúc bị cáo Thuận, là người hoàn toàn chủ động, trong toàn bộ quá trình đưa hối lộ 137.000.000đ nhưng chỉ phải chịu mức hình phạt 07 năm tù, điều này không thể hiện được sự phân hóa mức độ phạm tội giữa 02 bị cáo. Ngoài ra mục đích bị cáo Thuận đưa hối lộ cho Hải, là để nhằm thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tế bị cáo Thuận đã chiếm đoạt được 3.795.000.000 đồng của 21 người bị hại. Do đó việc Tàa án cấp sơ thẩm áp dụng điều 47 BLHS cho bị cáo Thuận hưởng mức hình phạt dưới khung (07 năm tù)về tội Đưa hối lộ là quá nhẹ, không tương xứng với vị trí vai trò, tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo Thuận đó thực hiện và không đúng với quy định về việc áp dụng điều 47 BLHS.
 
Kháng nghị đề nghị Tòa Phúc thẩm - Tòa án nhân dân Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm, theo hướng tăng mức hình phạt cho cả 02 tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Đưa hối lộ đối với bị cáo Huỳnh Vũ Thuận.
 
Thanh Tâm
Tìm kiếm