* Kháng nghị số 343/2010/QĐ- VKSTC- VPT3 ngày 07/6/2010 đối với bản án DSST số 370/2010/DS-ST ngày 30/3/2010 của TAND TP. Hồ Chí Minh đã xét xử vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng sang nhượng cơ sở kinh doanh” giữa đồng nguyên đơn là bà Lê Thị Hồng Thắm- SN 1976, ông Tony Ngô- SN 1968, đều ở phường 3, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh và đồng bịđơn là ông Andy Trần- SN 1956; Trần Baron – SN 1952 (Trần Hấu). Địa chỉ liên lạc ở 316, đường 3/2, phường 12, quận 10, TP. Hồ Chí Minh..
Tin về kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát
I. KHÁNG NGHỊ
1. Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại TP. Hồ Chí Minh (Viện phúc thẩm 3):
* Kháng nghị số 343/2010/QĐ- VKSTC- VPT3 ngày 07/6/2010 đối với bản án DSST số 370/2010/DS-ST ngày 30/3/2010 của TAND TP. Hồ Chí Minh đã xét xử vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng sang nhượng cơ sở kinh doanh” giữa đồng nguyên đơn là bà Lê Thị Hồng Thắm- SN 1976, ông Tony Ngô- SN 1968, đều ở phường 3, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh và đồng bịđơn là ông Andy Trần- SN 1956; Trần Baron – SN 1952 (Trần Hấu). Địa chỉ liên lạc ở 316, đường 3/2, phường 12, quận 10, TP. Hồ Chí Minh..
Lý do kháng nghị: Vụ án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự về nguyên tắc xét xử liên tục được quy định tại Điều 197 BLTTDS vì Vụ kiện tranh chấp trên được đưa ra xét xử từ ngày 25 đến ngày 30/3/2010, trong thành phần Hội đồng xét xử có Hội thẩm nhân dân Phan Thị Anh Thư còn đồng thời tham gia một hội đồng xét xử khác trong vụ kiện “Tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn Trương Thị Hồng Vân và bịđơn Trương Thị Mỹ Dung được xét xử từ ngày 22 đến ngày 29/3/2010 (Bản án số 345/2010 ngày 29/3/2010)
Kháng nghị đề nghị Tòa phú thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh xử phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 370/2010/DS-ST ngày 30/3/2010 để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắc Lắc
* Ngày 04/6/2010, VKSND tỉnh Đắc Lắc ban hành Kháng nghị phúc thẩm số 06/QĐ-KNPT đối với bản án hình sự số 18/2010/HSST ngày 13/5/2010 của TAND thị xã Buôn Hồđã xét xử bị cáo Nguyễn văn Duy, sinh năm 1986 tại Hải Dương, trú tại xã Eakmut, huyện Eakar, tỉnh Đắc Lắc về tội “Vi phạm quy định vềđiều khiển phương tiện giao thông đường bộ’’ theo khoản 1, Điều 202; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 30 BLHS xử phạt bị cáo 5.000.000đ.
Lý do kháng nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng (làm chết 01 người), hậu quả tai nạn xảy ra lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Việc xử phạt hình phạt tiền đối với bị cáo là không đạt đựơc mục đích cải tạo giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội trước tình hình ngày càng có nhiều vi phạm quy định về an toàn giao thông như hiện nay.
Kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm xử phạt hình phạt tù đối với bị cáo.
* Ngày 04/6/2010, VKSND tỉnh Đắc Lắc ban hành Kháng nghị phúc thẩm số 350/QĐ/KNPT-P12 đối với Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2010/KDTM ngày 21/4/2010 của TAND TP. Buôn Ma Thuột, giải quyết vụ kiện tranh chấp hợp đồng mua bán giữa Công ty cổ phần tập đoàn Tân Thành Đô với Công ty TNHH Thương mại và vận tải Anh Khoa.
Bản án căn cứ các Điều: 128, 130,131,195,238 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Căn cứ các Điều: 428, 436, 437 Bộ luật dân sự và Điều 24, 50 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 để hủy hợp đồng mua án giữa 2 công ty nêu trên là chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 180 và Điều 438 Bộ luật dân sự , khoản 13 Điều 3, khoản 4 Điều 312 Luật thương mại.
Kháng nghi đề nghị cấp phúc thẩm sửa một phần án sơ thẩm, bác yêu cầu hủy hợp đồng của Công ty TNHH Thương mại và vận tải Anh Khoa và buộc công ty này phải trả số tiền còn nợ là: 28.968,80 USD và tiền lãi phát sinh cho Công ty cổ phần Tập đoàn Tân Thành Đô.
* Kháng nghị số 352/2010/QĐ/KNTT-P5 ngày 07/6/2010 đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 78/QĐST - DS ngày 14/12/2009 của TAND huyện CưMgar theo thủ tục Tái thẩm. Bản án giải quyết vụ kiện “Tranh chấp tài sản” giữa nguyên đơn là bà Hồ Thị ái Nhi- SN 1961, trú tại thị trấn Quảng Phú, huyện CưMgar, tỉnh Đắc Lắc và bịđơn là bà Bùi Thị Hiệp - SN 1960, trú tại xã Quảng Tiến, huyện CưMgar, tỉnh Đắc Lắc.
Lý do kháng nghị: Tại quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên lại ghi nhận việc các đương sự thỏa thuận “tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 13 ngày 09/12/2009 của Tòa án nhân dân huyện CưMgar” là trái quy định của pháp luật. Bởi lẽ Quyết định trên Tòa áp dụng sau khi đã lập biên bản hòa giải thành giữa các đương sự ngày 07/12/2009…
Kháng nghịđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc hủy phần “Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 13 ngày 09/12/2009 của Tòa án nhân dân huyện CưMgar” tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đơng sự số 78/QĐST - DS ngày 14/12/2009 của TAND huyện CưMgar, tỉnh Đắc Lắc.
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng
* Ngày 11/6/2010, VKSND tỉnh Sóc Trăng ban hành Kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ/KNPT đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2010/HSST ngày 13/5/2010 của TAND huyện Vĩnh Châu đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn Hà, SN 1975, trú tại ấp Kinh Mới, xã An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Lý do kháng nghị: Cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự và tình tiết giảm nhẹđược qui định tại điểm 0 khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Hà 02 năm tù là không đúng vì Nguyễn Văn Hà đã thực hiện hành vi giả mạo chữ ký của nhiều người để chiếm đoạt số tiền là 53.000.000 đồng, thuộc tình tiết định khung tăng nặng theo điểm e khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự.
Kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm xử không áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và chuyển khung hình phạt đối với bị cáo Nguyễn văn Hà.
* Ngày 11/6/2010, VKSND tỉnh Sóc Trăng ban hành Kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ/KNPT đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2010/HSST ngày 15/4/2010 của TAND TP. Sóc Trăng đã xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Đẹt, SN 1969, Nguyễn Văn Đém, SN 1984, đều trú tại phường 8, TP. Sóc Trăng về tội “Tổ chức đánh bạc”.
Lý do kháng nghị: Cấp sơ thẩm đánh giá không đúng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Đém nên áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 01 năm tù là không đúng và tuyên phạt cả hai bị cáo trong vai trò đồng phạm với mức hình phạt nhẹ .
Kháng nghịđề nghị cấp phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đém và tăng hình phạt đối với hai bị cáo.
II. KIẾN NGHỊ
1. Ngày 26/5/2010, VKSND tỉnh Gia Lai ban hành Kiến nghị số 07/KN-P5 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đề nghị khắc phục một số thiếu sót, vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự, kinh doanh thương mại như:
+ Bản án dân sự phúc thẩm số 13/2009/DS-PT ngày 11/12/2009 giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng vay và mua bán tài sản giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Tám và đồng bịđơn Nguyễn Thị Sinh- Lại Công Bình. Tòa án giải quyết 2 mối quan hệ dân sự và kinh doanh thương mại trong cùng một vụ án, nhưng phần quyết định của bản án chỉ căn cứ các điều luật về dân sự mà không áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 33 BLTTDS và Điều 297 Luật thương mại để giải quyết là áp dụng căn cứ pháp luật chưa đầy đủ.
+ Quyết định công nhận ... số 05/2010/QĐST-KDTM ngày 21/01/2010 giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại giữa nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (chi nhánh Yên Đỗ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai) với bịđơn Đoàn Thị Hận. Quyết định tuyên lãi trả trong quá trình thi hành án đối với khoản tiền của tổ chức tín dụng không đúng theo khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự, Thông tư liên tịch số 01/TT-LT ngày 19/6/1997 của VKSNDTC-TANDTC- Bộ Tư pháp- Bộ Tài chính và Công văn số 43/1999/KHXX ngày 24/5/1999 của Tòa án nhân dân tối cao.
+ Một số Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án áp dụng điều luật không rõ ràng, chỉ căn cứ vào Điều 192, 193,194 mà không căn cứ vào điểm, khoản nào của điều luật, liên quan đến việc nguyên đơn có được quyền khởi kiện lại hay không. Ví dụ như: Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 01/2010/QDST-KDTM ngày 08/1/2010, giải quyết vụ án tranh chấp thương mại giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (chi nhánh Chư Á) với ông Nguyễn Văn Xuân; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 02/2010/QDST-KDTM ngày 03/3/2010, giải quyết vụ án tranh chấp thương mại giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (chi nhánh Chư Á) với bà Nguyễn Thị Cúc; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 03/2010/QDST-KDTM ngày 03/3/2010, giải quyết vụ án tranh chấp thương mại giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á (chi nhánh Đắc Lắc) với ông Trịnh Xuân Đoài.
+ Bản án phúc thẩm dân sự số 45/2010/DSPT ngày 13/4/2010 giải quyết vụ kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền giữa nguyên đơn Nguyễn Hồng Tuyên và bị đơn Nguyễn Văn Thành tính án phí không đúng khoản 1 Điều 131 BLTTDS, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 1.860.440đ.
2. Ngày 31/5/2010, Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại TP. Hồ Chí Minh ban hành Kiến nghị số 334/2010/KN-VPT3 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đề nghị khắc phục vi phạm về thời hạn chuyển hồ sơ được qui định tại khoản 2 Điều 237 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3.Ngày 091/6/2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành Kiến nghị số 557/VKS-P12 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đề nghị khắc phục một số vi phạm như: vi phạm về thời hạn gửi Thông báo thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định công nhận sự thỏa thuận , Quyết định đình chỉ, Bản án cho Viện kiểm sát (vi phạm các Điều 174, 187, 194, 195 và 241 BLTTDS); Thời hạn giải quyết án có nhiều vụ còn kéo dài, có vụ chậm đến 13 tháng (vi phạm Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự); áp dụng căn cứ pháp luật và việc xử lý tiền tạm ứng án phí trong trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án thiếu chính xác (Quyết định đình chỉ số 01/2010/QĐST-KDTM ngày 11/5/2010 giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long với Công ty TNHH xây dựng Thúy Trang , Tòa án vi phạm trong việc miễn áp phí cho đối tượng không được miễn. Vi phạm khoản 2 Điều 193 BLTTDS và khoản 6 Điều 18 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án).
4. Kiến nghị số 354/KN-VKS ngày 04/6/2010 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắc Lắc gửi Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắc Lắc trong đó nêu một số kết quả đã làm đựơc của Cục thi hành án dân sự tỉnh và đề nghị khắc phục tồn tại trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp như: việc “Thông báo thụ lý đơn” thực hiện chưa đầy đủ theo qui định tại Điều 148 Luật thi hành án dân sự năm 2008, không hướng dẫn cho người khiếu nại nếu không đồng ý với kết quả giải quyết lần đầu thì có quyền khiếu nại tiếp (vi phạm Điều 142 Luật thi hành án dân sự).
Thanh Tâm