Qua công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án, Trang thông tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo...
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn
rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự bị sửa, hủy
Qua công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án, Trang thông tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
1. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn, giữan guyên đơn: Hoàng Văn C, bị đơn: Hoàng Văn T cùng địa chỉ: Thôn Bản Chắt, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2012/DS-ST ngày 23/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập xử: “Công nhận quyền quản lý, sử dụng của ông Hoàng Văn T đối với diện tích đất 2959 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 177, khoản 14, tiểu khu 455, tờ bản đồ địa chính Lâm nghiệp số 01 xã Bính Xá, đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đình Lập cấp ngày 21/3/2011 cho ông Hoàng Văn T và vợ là bà Lê Thị A và tài sản (cây) trên diện tích 2959 m2 đất. Tạm giao số diện tích 2041 m2 đất tranh chấp có tài sản gắn liền đất cho ông Hoàng Văn T tiếp tục quản lý. Ông T có trách nhiệm kê khai để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Bác yêu cầu đòi quản lý, sử dụng diện tích 5000 m2 đất tranh chấp, tài sản gắn liền với đất và bồi thường thiệt hại về tài sản (nhựa thông) của ông Hoàng văn C”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí định giá, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Trong hạn luật định nguyên đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông T, đề nghị thẩm định, định giá lại và yêu cầu được quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp và toàn bộ tài sản có trên đất.
Nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: Năm 1994 ông được Nhà nước giao quyền sử dụng đất Lâm nghiệp (sổ bìa xanh) đối với diện tích đất 7, 5 ha tại Pò Đồn thuộc thôn Bản Chắt, xã Bính Xá, huyện Đình Lập. Năm 1998 ông đã cùng với Hạt kiểm lâm huyện Đình Lập điều hòa diện tích đất trong sổ bìa xanh của ông cho những hộ dân trong thôn để họ trồng rừng theo dự án Việt – Đức. Ông cũng đã trồng thông theo dự án trên diện tích đất 18.900 m2 (1, 89 ha) và chuyển diện tích đất 18.900 m2 từ sổ bìa xanh sang sổ bìa đỏ. Còn một phần đất của sổ bìa xanh đã có các cây thông tự mọc và một số cây gỗ tạp nên ông giữ lại quản lý sử dụng không chia cho các hộ khác, phần đất này ông chưa chuyển sang sổ bìa đỏ. Thấy khu đất không trồng thông sự án nên năm 1995 bị đơn là người cùng thôn đã trồng hồi vào khu đất đó, ông có biết nhưng không nhổ đi, năm 1998, 1999 bị đơn trồng thêm cây hồi và cây thông con thì ông nhổ đi. Năm 2008 Nhà nước có chủ trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn đã kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất tranh chấp, khi đoàn đo đạc Phòng tài nguyên và môi trường huyện Đình Lập lên đo đạc, xác định diện tích ông có ký giáp danh vào sổ của đoàn đo đạc, đến khi hoàn thành hồ sơ đưa về xã để các hộ ký giáp thì ông không ký vì cho rằng diện tích đất bị đơn kê khai là của ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp và các tài sản trên đất. Ngoài ra ông còn yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại tài sản là nhựa thông đã khai thác với tổng số tiền là 31.136.000 đồng.
Bị đơn cho rằng: Năm 1991 ông đã làm nhà ở bên dưới diện tích đất hiện đang tranh chấp, gia đình ông đã trồng các loại hoa màu ngắn ngày, sau nhiều năm đất bạc màu ông chuyển sang trồng cây lâu năm như cây hồi, cây vải, cây trám đen, cây thông. Năm 2008 ông kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì xảy ra tranh chấp. Nay ông yêu cầu được tiếp tục quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp và tài sản có trên đất, vì ngày 21/3/2011 ông đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đình Lập cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông và vợ.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án thấy việc bản án sơ thẩm xác định ông bị đơn canh tác và quản lý diện tích đất tranh chấp từ năm 1991 là chưa chính xác, vì theo văn bản trả lời của Uỷ ban nhân dân xã Bính Xá thì hộ của bị đơn trồng cây năm 1995 và cũng phù hợp với lời khai của bị đơn gia đình ông bắt đầu trồng cây từ năm 1995. Hơn nữa khi tiến hành xem xét thẩm định, định giá tài sản tranh chấp, Hội đồng định giá đã căn cứ vào Quyết định số 16/2008/QĐ-UBND không ghi rõ ngày, tháng, năm của quyết định và không ghi của Uỷ bân nhân dân cấp nào là thiếu sót.
Đồng thời việc tranh chấp xảy ra từ năm 2009 đến tháng 3/2012 Tòa án mới xét xử vụ án, nhưng ngày 21/3/2011 bị đơn được Uỷ ban nhân dân huyện Đình Lập cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn có đúng trình tự, thủ tục và đúng đối tượng hau không vấn đề này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xác minh làm rõ. Qúa trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm Tòa án đã tiến hành thu thập thêm chứng cứ và tại công văn số 46/CV-VPĐK ngày 17/7/2012 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn khẳng định: Hiện nay văn phòng đăng ký quyền sử đụng đất huyện Đình Lập chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn, do đơn vị thi công chưa hoàn thiện hồ sơ địa chính và chưa bàn giao cho cấp huyện quản lý.
Ngoài ra qua xác minh tại thôn Bản Chắt, xã Bính Xá, huyện Đình Lập xác định có hai ông Hoàng Văn T A và ông Hoàng Văn T B, nhưng đối chiếu với danh sách các trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được niêm yết công khai tại Uỷ ban nhân dân xã Bính Xá thì chỉ có tên bị đơn, mà không ghi cụ thể là ông T A hay ông T B. Hơn nữa ngày 11/01/2012 bị đơn cung cấp bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Hoàng Văn T B nhưng Tòa án sơ thẩm chưa tiến hành xác minh làm rõ và không đưa Uỷ ban nhân dân huyện Đình Lập, ông Hoàng Văn T A vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng.
Với những vi phạm trên bản án phúc thẩm số 05/2013/DS-PT ngày 10/01/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 02/2012/DS-ST ngày 23/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập.
2. Vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, giữa nguyên đơn: Phạm Thị H, địa chỉ: Số nhà 75, đường Ngô Thị Sỹ, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và bị đơn: Vy Thị Châm, địa chỉ: Số 276, đường Bắc Sơn, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 12/2012/DS-ST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 536.900.000 đồng (Năm trăm ba mươi sáu triệu chín trăm nghìn đồng)”. Ngoài ra bản án còn tuyên án phí, quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Trong hạn luật định bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: Ngày 27/5/2011 bà cho bị đơn vay số tiền 455 triệu đồng có lập giấy vay tiền, thời hạn vay 02 tháng, trong giấy vay tiền không ghi về lãi xuất nhưng thực tế hai bên có thỏa thuận là vay có lãi. Đến hạn thanh toán bị đơn không trả nợ và lãi, nên bà đã khởi kiện yêu cầu thanh toán số tiền gốc 455 triệu đồng và lãi cho bà.
Bị đơn thừa nhận chữ viết và chữ ký tại giấy vay tiền ngày 27/5/2011 là của mình, nhưng cho rằng thực tế bị đơn chỉ vay của nguyên đơn 350 triệu đồng với lãi xuất 5.000 đồng/ngày/01 triệu, thời hạn vay 02 tháng, do nguyên đơn yêu cầu phải ghi nộp cả tiền lãi của hai tháng là 105 triệu vào số tiền gốc là 350 triệu thành tổng số tiền là 455 triệu trong giấy vay nợ thì mới đồng ý cho vay, nên giấy vay nợ mới ghi tổng tiền là 455 triệu. Nay bà chỉ chấp nhận trả 350 triệu tiền gốc là lãi xuất theo quy định.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Qúa trình giải quyết vụ án thấy rằng: Việc Tòa án sơ thẩm căn cứ vào giấy vay tiền lập ngày 27/5/2011 giữa nguyên đơn và bị đơn buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 455 triệu đồng gốc là có căn cứ, tuy nhiên việc cấp sơ thẩm tính lãi xuất từ ngày vay tiền là chưa chính xác, vì trong giấy vay tiền ghi thời hạn là 02 tháng từ ngày 27/5/2011 đến ngày 27/7/2011, do đó bị đơn chỉ phải chịu lãi kể từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán từ ngày 28/7/2011 đến ngày xét xử sơ thẩm là 14 tháng với số tiền lãi 71.662.500 đồng thì mới chính xác.
Với vi phạm trên bản án phúc thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 15/01/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử sửa một phần bản án sơ thẩm số 12/2012/DS-ST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn.
3, Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền trên đất và kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn, giữa nguyên đơn: Đường Văn C vàị đơn: Hoàng Thị G, cùng địa chỉ: Thôn Nà Vang, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2012/DS-ST ngày 10/01/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được quyền quản lý, sử dụng diện tích 13.720, 9 m2 đất tranh chấp và các tài sản trên đất (cây thông) nằm trong diện tích 6, 8 ha thuộc thửa số 117, tiểu khi đất rừng Nó Dưởng, thuộc thôn Nà Vang, xã Bính Xá, huyện Đình Lập, đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho con trai nguyên đơn là Đường Minh C (tức Tàng Văn C). Tại giấy chứng nhận số AD 331992 ngày 18/11/2005 (có sơ họa kèm theo). Bác yêu cầu của bị đơn đòi quản lý, sử dụng diện tích 13.720, 9 m2 đất tranh chấp và tài sản các cây trên đất vì không có căn cứ. Buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Tàng Minh L do khai thách trái phép 17 cây thông năm 2006, trị giá tại thời điểm giải quyết vụ án là 40.000 đồng/ Cây = 680.000 đồng; 265 cái bô nhựa trị giá 174.900 đồng; 23 kg nhựa thông = 460.000 đồng, tổng cộng là 1.314.900 đồng”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định, định giá, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Tong hạn luật định bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Nội dung vụ án:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Tàng Minh L trình bày khu rừng Nó Dưởng hiện đang tranh chấp, trước năm 1993 là khu rừng bỏ hoang không ai quản lý. Tháng 4/1993 ông cùng vợ con đi phát hoang bụi rậm và đường băng cản lửa được tổng diện tích là 6, 8 ha, trên đó có một số cây thông con tự mọc khoảng 400 cây, gia đình ông có làm trang trại chăn thả dê và trồng thêm khoảng 200 cây thông. Năm 1998 ông đã kê khai và được Nhà nước giao quyền quản lý, sử dụng đất rừng với diện tích là 14 ha. Ngày 18/11/2005 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 6, 8 ha thửa số 117, tiểu khu 455 mang tên Đường Văn C con trai ông, gia đình ông vẫn quản lý, sử dụng ổn định không có tranh chấp. Năm 2002 gia đình bị đơn tự ý đến khai thác nhựa thông và chặt phá một số cây trên diện tích đất của gia đình ông, ông đã báo chính quyền địa phương giải quyết nhưng bà Giắp vẫn tranh chấp. Nay ông yêu cầu bị đơn chấm dứt việc tranh chấp đất rừng và bồi thường 17 cây thông bị đơn đã chặt năm 2006 với trị giá 300.000 đồng/cây = 5.100.000 đồng; 265 cái bô nhựa trị giá 1.200.000 đồng; 23, 85 kg nhựa thông bị thiệt hại là 858.600 đồng.
Bị đơn trình bày: Khu đất rừng tranh chấp là thuộc đất ruộng của cha, ông bà để lại. Năm 1979 do chiếm tranh biên giới nên gia đình bà đi sơ tán đến năm 1980 khi quay về gia đình bà vẫn quản lý, cảnh tác. Do đất đai bị sói mòn không canh tác được nên bà làm bãi chăm thả gia súc, trên diện tích đất đó có một số cây thông tự mọc phát tán. Năm 2000 thực hiện chủ trương giao đất giao rừng của nhà nước các hộ gia đình trong thôn đã cùng thống nhất tách khu đồi Nó Dưởng ra để làm bãi chăn thả gia súc cho thôn Nà Vang và tách số ruộng của gia đình bà ra để canh tác. Gia đình bà đã khai thác nhựa thông được 04 năm thì gia đình ông L đến ngăn cản vì cho rằng diện tích đất bà đang quản lý, sử dụng gia đình ông đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay bà yêu cầu được quản lý số ruộng của gia đình bà khoảng 01 ha và khoảng 400 – 500 cây thông trên diện tích đất tranh chấp.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm đã có một số vi phạm như: Thẩm định và định giá diện tích đất tranh chấp không căn cứ theo giá chuyển nhượng thực tế tại phương, chưa thu thập đầy đủ căn cứ để xác định thời điểm trồng cây thông của các bên đương sự mà đã xem xét giải quyết về phần tài sản là chưa đảm bảo, xem xét giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với 17 cây thông khi đã hết thời hiệu khởi kiện, phần quyết định của bản án sơ thẩm xử giao diện tích đất tranh chấp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Tàng Văn C, cho ông Tàng Minh L là người đại diện theo ủy quyền của anh C quản lý sử dụng là không chính xác.
Với những vi phạm nêu trên ngày 19/01/2012 Viện kiểm sát huyện Đình Lập đã có quyết định số 01/QĐ- KNPT- VKS kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm số 01/2012/DS - ST ngày 10/01/2012 Tòa án nhân dân huyện Đình Lập theo hướng sửa bản án sơ thẩm.
Qúa trình giải quyết ở cấp phúc thẩm Tòa án đã tiến hành Thẩm định và định giá bổ sung, Hội đồng định giá đã thống nhất áp dụng theo giá đất chuyển nhượng thực tế tại địa phương là 50.000 đồng/ha để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về phần bồi thường thiệt hại tài sản, bị đơn đồng ý với đề nghị rút yêu cầu bồi thường của nguyên đơn, nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 269 Bộ luật tố tụng dân sự hủy một phần bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết phần bồi thường thiệt hại tài sản.
Còn về vi phạm tại phần quyết định của bản án sơ thẩm đã xử giao diện tích đất tranh chấp cho người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn quản lý sử dụng là không chính xác, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên nguyên đơn là anh Tàng Văn C chứ không phải ông T Minh L. Do đó bản án phúc thẩm số 03/2013/DS-ST ngày 09/01/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa một phần bản án sơ thẩm số 01/2012/DS-ST ngày 10/01/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập.
4. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, giữa Nguyên đơn: Dương Thị T và bị đơn: Lâm Văn Đ, cùng địa chỉ: Thôn Nam Hương 2, xã Tân Hương, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2012/DS-ST ngày 18/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử tạm giao thửa đất 150, tờ bản đồ số 22, diện tích 560 m2 bản đồ chính quy hiện nay là thửa 100 diện tích 405, 5 m2 và thửa 102 diện tích 214, 9 m2 đều thuộc tờ bản đồ số 87 cho nguyên đơn quản lý, sử dụng.
Xử hủy nội dung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn cấp cho ông Lâm Văn Đ đối với thửa đất số 150, tờ bản đồ số 22, diện tích 560 m2 tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 6272 ngày 15/10/1997”. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí định giá, quyền kháng cáo và yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Trong hạn luật định bị đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.
Nội dung vụ án:
Nguyên đơn trình bày: Diện tích đất tranh chấp nguồn gốc là do vợ chồng bà khai phá từ năm 1960, bà đã cải tạo và canh tác sử dụng đến nay. Năm 1988 bà cho bà P mẹ của bị đơn mượn canh tác 01 năm, sau đó gia đình bà lấy lại để sử dụng. Năm 1997 bị đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bà cho mượn canh tác. Bà cho rằng việc Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn là nhầm lẫn, nên bà đã đề nghị bị đơn cùng ra Uỷ ban nhân dân xã để làm thủ tục chuyển sang tên bà nhưng bị đơn không hợp tác. Nay bà yêu cầu được quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn đã cấp cho bị đơn.
Bị đơn trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp theo anh được biết là do bố mẹ anh khai phá, vì từ nhỏ anh đã được cùng bố mẹ trồng đỗ, khoai trên diện tích đất này. Gia đình anh đã canh tác liên tục từ năm 1988 đến năm 2008 thì nguyên đơn đến tranh chấp. Thửa đất này anh đã kê khai và được Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997. Nay bà T yêu cầu được quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp anh không đồng ý.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án sơ thẩm chưa tiến hành thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định việc Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Lâm Văn Đ có đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật đất đai năm 1993 và khoản 4 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 hay không, nhưng đã xử hủy giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn cấp cho hộ anh Đ là chưa đảm bảo căn cứ.
Đồng thời giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Sơn cấp cho hộ gia đình anh Lâm Văn Đ nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vợ anh Đ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.