Vừa qua, VKSND tối cao ban hành thông báo rút kinh nghiệm về việc xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính; Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:..
VKSND tối cao rút kinh nghiệm trong việc
xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
Vừa qua, VKSND tối cao ban hành thông báo rút kinh nghiệm về việc xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính; Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Vụ án thứ nhất: Ngày 14/4/2006 Ủy ban nhân dân thị xã H tỉnh H ban hành Quyết định số 304 về việc thu hồi 902,43 m2 đất, trong đó có diện tích đất của gia đình ông Nguyễn Danh Sắc. Do không chấp hành Quyết định số 304, Ủy ban nhân dân thị xã H tiếp tục ra Quyết định xử phạt hành chính số 1341 ngày 18/10/2006 và Quyết định cưỡng chế số 1485 đối với gia đình ông Sắc. Không đồng ý cả 2 quyết định nói trên, bà Dương Thị Bích (vợ ông Sắc) đã làm đơn khiếu nại. Ngày 25/01/2007 Ủy ban nhân dân thị xã H đã ra quyết định số 61 không chấp nhận đơn khiếu nại của bà Bích. Sau khi nhận được Quyết định số 61 ông Sắc tiếp tục khiếu nại lên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh H.
Ngày 31/5/2014 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh H đã ra Quyết định 1273 với nội dung: Không chấp nhận các nội dung khiếu nại của ông Sắc, giữ nguyên các Quyết định số 304, 1341, 1485 và Quyết định số 61 (điều 1). Giao cho Ủy ban nhân dân thị xã H lập các thủ tục tiến hành bồi thường diện tích 130m2 đất hợp pháp của gia đình ông Sắc và hướng dẫn các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa nhằm xác định chủ sở hữu hợp pháp diện tích đất còn lại để tiến hành đền bù theo quy định của Nhà nước (điều 2).
Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại trên vì cho rằng quyết định làm mất của gia đình ông 111m2 đất, ông Sắc đã khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ Điều 2 Quyết định 1273.
Tòa án nhân dân tỉnh H cho rằng Điều 2 của Quyết định 1273 có nội dung “bổ sung” các quyết định trước đó, do vậy quyết định này thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Bản án sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Sắc. Sau xét xử sơ thẩm, ông Sắc làm đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tuy nhiên, khi xem xét lại Quyết định 1273,Viện kiểm sát và Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy đây là quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh H giải quyết khiếu nại của ông Sắc yêu cầu đòi hủy bỏ 4 quyết định của Ủy ban nhân dân thị xã H (gồm quyết định số 304, 1341, 1485 và 61). Quyết dịnh 1273 đã kết luận: Nội dung khiếu nại của ông Sắc là không có căn cứ nên bác toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Sắc yêu cầu hủy bỏ 4 quyết định nêu trên của UBND thị xã H.
Như vậy quyết định số 1273 vẫn giữ nguyên các Quyết định số 304, 1341, 1485 và 61 của Ủy ban nhân dân thị xã H. Điều 2 của Quyết định này có nội dung chỉ đạo Ủy ban nhân dân thị xã H thực hiện đầy đủ chức năng của mình trong việc quản lý đất đai và thực hiện tốt công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Đây không phải là nội dung “bổ sung” các quyết định trước đó như Tòa sơ thẩm đã đánh giá.
Tại điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này”. Căn cứ hướng dẫn này thì Quyết định 1273 không thuộc đối tương khởi kiện vụ án hành chính vì quyết định này là quyết định giải quyết khiếu nại và không có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính ban đầu. Việc Tòa án nhân dân tỉnh H thụ lý, giải quyết vụ án hành chính này là không đúng thẩm quyền. Do vậy Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã căn cứ khoản 4 Điều 205, Điểm đ khoản 1 Điều 120 và khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Vụ án thứ hai: Năm 2008 Ủy ban nhân dân huyện H tỉnh CB đã có Quyết định 447 giải quyết tranh chấp đất giữa ông Bế Kim Trung với ông Bế Xuân Anh có nội dung thu hồi, sửa đổi đất số 350 diện tích 4.646 m2, tờ bản đồ địa chính số 76 xã Đ giao mảnh đất này cho ông Bế Xuân Anh quản lý, sử dụng. Do không đồng ý với Quyết định 447 ông Trung làm đơn khiếu nại gửi cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết. Từ năm 2008 đến năm 2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh CB đã ra 3 quyết định khác nhau để giải quyết khiếu nại nói trên, gồm:
Quyết định số 1506 ngày 11/9/2010 có nội dung không chấp nhận đơn khiếu nại của ông Trung, giữ nguyên Quyết định 447;
Quyết định số 449 ngày 26/4/2013 có nội dung sửa đổi điều 2 Quyết định 1506, hủy Quyết định 447
Quyết định 1420 ngày 10/9/2013 có nội dung hủy cả hai quyết định 1506 và 449 giao cho Ủy ban nhân dân huyện H có trách nhiệm hủy bỏ Quyết định 447 do quyết định này ban hành chưa đúng thực tế quản lý và sử dụng đất, chưa đảm bảo đúng theo quy định của Luật đất đai năm 2003
Không đồng ý với Quyết định 1420 ông Trung đã khởi kiện ra Tòa giải quyết. Bản án sơ thẩm nhận định: Quyết định 1420 không hủy bỏ, thay thế Quyết định 447 mà chỉ yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện H có trách nhiệm hủy bỏ Quyết định này, do vậy không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Vì vậy Bản án sơ thẩm đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của ông Trung về việc hủy bỏ Quyết định 1420.
Viện kiểm sát và Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy: Quyết định 1420 đã hủy bỏ hai Quyết định 1506 và 449 trước đó và yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện H hủy bỏ Quyết định 447 với lý do việc áp dụng căn cứ pháp luật không chính xác.
Căn cứ khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính và hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2011 đã viễn dẫn ở trên thì Quyết định 1420 đã có đủ điều kiện để được xác định là “Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Việc bản án sơ thẩm xác định Quyết định này không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính để đình chỉ giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Ngoài ra khi giải quyết vụ kiện này cấp sơ thẩm đã có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng khác như:
Hội đồng xét xử sơ thẩm tuy không xem xét nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Trung đối với Quyết định 1420 nhưng lại bác yêu cầu khởi kiện này là trái với quy định của Điều 163 Luật Tố tụng hành chính.
Cấp sơ thẩm đã có vi phạm tố tụng khi mở phiên tòa sơ thẩm để tuyên đình chỉ giải quyết yêu cầu của người khởi kiện vì lý do Quyết định 1420 không phải là đối tượng khởi kiện hành chính. Lẽ ra trong trường hợp này, cấp sơ thẩm chỉ mở phiên họp để ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn kiện theo quy định tại điểm đ khoản 1, 2 Điều 120; điểm e khoản 1 Điều 109 và khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính.
Do hội đồng xét xử sơ thẩm đã có những vi phạm nghiêm trọng trong tố tụng như đã nêu trên, Bản án phúc thẩm ngày 7/7/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã căn cứ khoản 3 Điều 205 Luật Tố tụng hành chính hủy bản án sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thẩm quyền.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Luật Tố tụng hành chính đã có hiệu lực được 3 năm dù vậy việc xác định các “Quyết định giải quyết khiếu nại” có phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không vẫn còn có nhiều sai sót. Cả 2 vụ án trên, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đã không phát hiện vi phạm để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Riêng đối với vụ án thứ nhất, phải đến lần xét xử phúc thẩm lần thứ 2 mới phát hiện được Quyết định không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Để làm tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hành chính thì vấn đề trước tiên phải xác định Quyết định hành chính bị khởi kiện có phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không; do vậy cần nắm vững Điều 28 Luật Tố tụng hành chính và Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Cụ thể cần nắm bắt hai vấn đề chính sau đây:
Quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính phải là quyết định được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính nêu trên chỉ được coi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính khi có nội dung sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính.
TH