CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Rút kinh nghiệm việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự

15/08/2016
Cỡ chữ:   Tương phản
Vừa qua, VKSND tỉnh A ban hành thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án Trộm cắp tài sản có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo...

 Rút kinh nghiệm việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự

 
Vừa qua, VKSND tỉnh A ban hành thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án Trộm cắp tài sản có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
Nội dung vụ án Nguyễn Đặng H, phạm tội “Trộm cắp tài sản”:
Khoảng 19 giờ ngày 02/12/2015, Nguyễn Đặng H lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu Lead của Nguyễn Thị Cẩm T, bên trong cốp xe có giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, giấy phép lái xe và số tiền 2.200.000 đồng. H có gọi điện thoại cho anh Đặng Văn Ng là cậu ruột của H cho biết vừa trộm được xe, nhờ đem tiêu thụ. Ng hẹn gặp H nhưng trên đường đi thì bị lực lượng Công an tuần tra bắt giữ, H khai nhận xe vừa lấy trộm được. Tổng giá trị chiếm đoạt 29.200.000 đồng.
Trước Cơ quan điều tra, H còn khai nhận thực hiện các vụ phạm tội, như sau:
Vụ 1: Ngày 05/11/2015, H lấy trộm xe mô tô của Nguyễn Văn B, trị giá 24 triệu đồng, giao cho Đặng Văn Ng đem bán cho người lại tại thành phố Hồ Chí Minh được 3 triệu đồng, chia nhau ăn tiêu hết.
Vụ 2: Ngày 09/11/2015, H lấy trộm xe mô tô của Lê Hồng H, trong cốp xe có giấy chứng nhận đăng ký xe, 02 giấy phép lái xe, 02 chứng minh thư nhân dân và 01 điện thoại di động. Tổng tài sản trị giá 12,8 triệu. H đem xe cầm tại thành phố Hồ Chí Minh được 7 triệu.
Vụ 3: Ngày 16/11/2015, H lấy trộm xe mô tô của anh Nguyễn Văn H trị giá 24 triệu, trong cốp xe có 2.7 triệu. H đem xe bán cho người lạ tại thành phố Hồ Chí Minh được 4 triệu đồng.
Vụ 4: Ngày 29/11/2015, H lấy trộm xe mô tô của anh Phan Văn M, trong cốp xe có giấy chứng nhận đăng ký xe, 2 chứng minh thư nhân dân, 2 giấy phép lái xe, trị giá 25 triệu đồng. H giao Ng đem đi tiêu thụ, nhưng chưa bán được còn cất giấu tại nhà H, Ng (nhà liền kề). Cơ quan điều tra đã thu giữ, xử lý.
Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 117.700.000 đồng. Sau khi tiêu thụ, H hưởng lợi 12.100.000 đồng; Ng hưởng lợi 1.900.000 đồng. Cơ quan điều tra khởi tố, tạm giam H và Ng.
Đặng Văn Ng có 1 tiền án. Ngày 27/6/2012, Tòa án nhân dân huyện C kết án 1 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 15/3/2013, chưa xóa án tích, phạm tội mới.
Bản án hình sự sơ thẩm ngày 13/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện C tuyên: Áp dụng Điểm b, d Khoản 2 Điều 138; Điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đặng H 3 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 250; Điểm p khoản 1 Điều 46; Điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Văn Ng 2 năm 6 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bản án còn quyết định về phần biện pháp tư pháp, án phí và quy định kháng cáo. Ngày 18/5/2016, các bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 13/7/2016 các bị cáo tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo; do vậy, Kiểm sát viên đề nghị, Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Về quyết định hình phạt đối với các bị cáo:
Khi quyết định hình phạt cần phải căn cứ Điều 45 Bộ luật hình sự, để áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân các bị cáo.
Trường hợp cụ thể vụ án này, sau khi bị bắt quả tang, các bị cáo tự nguyện khai ra các lần phạm tội trước đó chưa bị phát hiện xử lý. Bị cáo H khai nhận thêm 4 lần phạm tội, bị cáo Ng khai nhận 2 lần phạm tội. Lẽ ra, căn cứ các hướng dẫn tại Mục 5 Nghị quyết số 01 ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao; khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09 ngày 30/11/2011 và Thông tư liên tịch số 05 ngày 02/6/1990 và Mục 7 phần 1, Công văn số 81 ngày 10/6/2002, để xem xét:
- Đối với các bị cáo Nguyễn Đặng H cần áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Ngoài tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải còn có các tình tiết “tự thú” và “phạm tội nhiều lần” quy định tại Điểm o khoản 1 Điều 46 và Điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
- Đối với bị cáo Đặng Văn Ng có 1 tiền án chưa được xóa án tích, ngoài tình tiết thành khẩn khai báo, tái phạm còn có các tình tiết “tự thú” theo Điểm o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và “phạm tội nhiều lần” theo Điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp đối với các bị cáo
Cấp sơ thẩm đã tuyên buộc các bị cáo Nguyễn Đặng H và Đặng Văn Ng chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho người bị hại Nguyễn Văn B, giá trị tài sản chiếm đoạt 24 triệu đồng, còn buộc các bị cáo giao nộp 3 triệu đồng, tiền hưởng lợi từ việc bán tài sản chiếm đoạt để sung quỹ Nhà nước; buộc Nguyễn Đặng H bồi thường cho những người bị hại Lê Hồng H 12,8 triệu đồng, Nguyễn Văn H 26,7 triệu đồng còn buộc bị cáo H giao nộp 11 triệu hưởng lợi bán tài sản chiếm đoạt.
Việc quyết định buộc bồi thường cho những người bị hại phải nộp tiền hưởng lợi bất chính là chưa phù hợp với quy định của pháp luật, bất lợi cho các bị cáo H và Ng.
TT
 
Tìm kiếm