Vừa qua, VKSND các tỉnh ban hành một số thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự bị hủy, sửa do có vi phạm nghiêm trọng. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:..
Rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm sửa, hủy
Vừa qua, VKSND các tỉnh ban hành một số thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự bị hủy, sửa do có vi phạm nghiêm trọng. Trang tin điện tử VKSND tối cao trích đăng để bạn đọc tham khảo:
1. VKSND tỉnh Hà Nam rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp giao dịch liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bị cấp phúc thẩm sửa án:
Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn chị Vũ Hồng Thủy (ủy quyền cho chị Nguyễn Thanh Mai) trình bày: Năm 1994, chị Thủy và anh Vũ Thanh Huy (chồng chị Thủy) có mua mảnh đất (nay là thửa đất số 13, tờ bản đồ số 33, diện tích 166,7m2 tại tổ 3, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Sau khi mua đất vợ chồng chị đã làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mang tên hộ anh Vũ Thanh Huy. Vợ chồng chị đã xây dựng trên đất một nhà mái bằng diện tích 45m2 và sinh sống từ đó cho đến năm 2009 thì chị Thủy chuyển công tác lên Hà Nội, còn anh Huy vẫn ở trên thửa đất này cho đến nay. Năm 2014, chị Thủy được biết thửa đất trên của vợ chồng chị đã được anh Huy chuyển quyền sử dụng cho chị Vũ Thị Thu Trà (là em gái anh Huy), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện đứng tên chị Trà. Chị Thủy khẳng định chị không biết việc chuyển quyền sử dụng đất cho chị Trà và không ký bất cứ giấy tờ gì liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu TAND thành phố Phủ Lý hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Vũ Thanh Huy và chị Vũ Thị Thu Trà.
Bị đơn anh Vũ Thanh Huy có quan điểm: Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp là của ông Vũ Văn Phê (bố đẻ của anh Huy) bỏ tiền ra mua và cho anh đứng tên trên giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi có đất vợ chồng anh đã xây dựng nhà mái bằng hai tầng và xưởng sửa chữa ô tô đồng thời sinh sống tại đó. Năm 2007, chị Thủy lên Hà Nội công tác chỉ còn mình anh ở trên nhà, đất này. Do cần tiền để trả nợ nên anh đã nói với ông Phê muốn bán nhà, đất. Ông Phê đã mua lại nhà, đất này từ anh Huy với giá 1.500.000 đồng và cho chị Vũ Thị Thu Trà (con gái ông Phê) đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi chuyển nhượng đất, anh có nói cho chị Thủy biết nhưng chị Thủy không có ý kiến gì. Vì vậy anh Huy không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của chị Thủy.
Bị đơn chị Vũ Thị Thu Trà có quan điểm: Không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của chị Thủy, đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa chị và anh Huy.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Văn Phê có quan điểm: Nguồn gốc thửa đất là của ông bỏ tiền mua, ông cho anh Huy đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì khi đó ông đã có ý định cho anh Huy thửa đất. Năm 2009 ông Phê đưa cho anh Huy 1,5 tỷ đồng để anh Huy trả nợ và yêu cầu anh Huy làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng nhà, đất cho chị Vũ Thị Thu Trà. Quan điểm của ông Phê cho rằng thửa đất đó thuộc quyền sở hữu của ông, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện UBND phường Quang Trung và UBND thành phố Phủ Lý xác định: Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 13, tờ bản đồ phụ lục số 33 tại tổ 3, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý giữa anh Vũ Thanh Huy và chị Vũ Thị Thu Trà về mặt thủ tục là đảm bảo quy định pháp luật nên UBND thành phố Phủ Lý đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Trà. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Quá trình giải quyết:
Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 10/02/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Hồng Thủy. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Vũ Thanh Huy với chị Vũ Thị Thu Trà đối với thửa đất số 13, tờ bản đồ số 33, diện tích 166,7m2 và tài sản trên đất tại tổ 3, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bị vô hiệu. Buộc ông Vũ Văn Phê và chị Vũ Thị Thu Trà phải trả lại anh Vũ Thanh Huy thửa đất số 13, tờ bản đồ số 33, diện tích 166,7m2 và tài sản trên đất tại tổ 3, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Đồng thời anh Vũ Thanh Huy phải có trách nhiệm trả lại tiền chuyển nhượng đất và tài sản trên đất cho ông Vũ Văn Phê là 930.000.000đồng, trả chị Vũ Thị Thu Trà 570.000.000 đồng. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO620216 cấp ngày 03/7/2009 mang tên bà Vũ Thị Thu Trà. Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết về án phí.
Sau khi xét xử sơ thẩm, anh Huy, chị Trà, ông Phê có đơn kháng cáo toàn bộ bản án, yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án.
Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2015/DSPT ngày 24/7/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã quyết định: Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DSST ngày 10/2/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Hồng Thủy. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Vũ Thanh Huy với chị Vũ Thị Thu Trà đối với thửa đất số 13, tờ bản đồ số 33, diện tích 166,7m2 và tài sản trên đất tại tổ 3, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bị vô hiệu. Buộc chị Vũ Thị Thu Trà phải trả lại anh Vũ Thanh Huy thửa đất số 13, tờ bản đồ số 33, diện tích 166,7m2 và tài sản trên đất tại tổ 3, phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Đồng thời anh Vũ Thanh Huy phải có trách nhiệm trả lại tiền chuyển nhượng đất và tài sản trên đất cho chị Vũ Thị Thu Trà 570.000.000đồng. Kiến nghị UBND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 620216 cấp ngày 03/7/2009 mang tên bà Vũ Thị Thu Trà. Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Ngoài ra bản án còn tuyên phần án phí.
Lý do sửa án và những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 32a BLTTDS và Điều 12, khoản 1 Điều 29 Luật tố tụng hành chính xử hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A0620216 cấp ngày 03/7/2009 mang tên chị Vũ Thị Thu Trà là không chính xác, vượt quá yêu cầu khởi kiện. Vì: Theo Điểm a Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS quy định “quyết định cá biệt” là: “quyết định hành chính được quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật tố tụng hành chính và hướng dẫn tại điểm a và b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật tố tụng hành chính”. Theo đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là “quyết định cá biệt” mà quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới là quyết định cá biệt.
Trong vụ án nêu trên, UBND thành phố Phủ Lý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Trà trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Huy và chị Trà, giấy chứng nhận đó không phải là quyết định cá biệt, không thuộc nội dung điều chỉnh của Điều 32a BLTTDS. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Huy và chị Trà vô hiệu là có căn cứ, theo đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chị Trà sẽ không còn giá trị pháp lý, cần căn cứ Điều 106 Luật đất đai năm 2013, Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai kiến nghị UBND thành phố thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho chị Trà mới đúng.
Cùng với việc xác định “quyết định cá biệt” không đúng, Tòa án cấp sơ thẩm còn vi phạm thủ tục xem xét hủy quyết định cá biệt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 hướng dẫn thi hành điều 32a của Bộ luật tố tụng dân sự thì: “Tòa án xem xét hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật khi đương sự có yêu cầu bằng văn bản hoặc trình bày yêu cầu tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự”. Trong vụ án này, không có chứng cứ, tài liệu nào thể hiện yêu cầu của đương sự đề nghị Tòa án hủy quyết định cá biệt nhưng Tòa án đã áp dụng Điều 32a để giải quyết, là vượt quá yêu cầu khởi kiện, vi phạm khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vi phạm nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm đã được Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm không áp dụng Điều 32a BLTTDS hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chị Trà mà kiến nghị UBND thành phố Phủ Lý thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ hai, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu không chính xác, đã buộc ông Vũ Văn Phê và chị Vũ Thị Thu Trà phải trả lại anh Vũ Thanh Huy thửa đất số 13, tờ bản đồ số 33, diện tích 166,7m2 và tài sản trên đất tại tổ 3 phường Quang Trung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong khi giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng chỉ có anh Huy và chị Trà với số tiền trong hợp đồng là 570.000.000đ. Ông Phê không tham gia ký kết hợp đồng mua đất của anh Huy nên không phải có trách nhiệm trả đất cho anh Huy. Đồng thời ngoài việc buộc anh Huy phải thanh toán trả cho chị Trà 570.000.000đ, Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc anh Huy phải thanh toán trả cho ông Phê số tiền 930.000.000 đồng là không đúng, vì ông Phê là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo bên bị đơn (chị Trà) nhưng không có yêu cầu độc lập đối với anh Huy về việc phải thanh toán trả cho ông số tiền 930.000.000đ. Nay ông Phê muốn đòi lại số tiền này phải làm đơn khởi kiện bằng một vụ án khác.
Thứ ba, bản án sơ thẩm không buộc anh Huy phải chịu án phí có giá ngạch đối với số tiền 570.000.000đ anh Huy phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản trả cho chị Vũ Thị Thu Trà là vi phạm điểm b khoản 3 Điều 17 Nghị quyết số 01/2012 ngày 13/6/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án
2. VKSND tỉnh Bắc Ninh rút kinh nghiệm vụ án “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu”, bị cấp phúc thẩm hủy án để giải quyết lại do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Nội dung vụ án: Năm 2001 chị Trịnh Thị Lệ và anh Trần Minh Hưng tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, đến ngày 08/5/2002 anh chị tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục. Sau kết hôn chị Lệ, anh Hưng đăng ký hộ khẩu và sống chung cùng bố mẹ đẻ anh Hưng là ông Trần Minh Đức và bà Đỗ Thị Thu Hà, đến ngày 10/2/2003 thì tách khẩu riêng chủ hộ là anh Hưng (thành viên gồm: chị Lệ (vợ) và Trần Chí Thọ (con).
Thực hiện chủ trương cấp đất ở cho các hộ gia đình chưa có đất ở để làm nhà của UBND xã Bình Nghĩa, UBND huyện Bình Lục, tháng 2/2002 anh Hưng làm đơn gửi UBND xã Bình Nghĩa xin xét duyệt cấp đất giãn dân. Ngày 11/12/2003 UBND huyện Bình Lục ban hành Quyết định số 1172/QĐ-UB về việc giao đất cho các hộ dân để làm nhà ở, trong đó có hộ anh Hưng. Ngày 25/12/2003, Phòng địa chính huyện Bình Lục cùng với UBND xã Bình Nghĩa tiến hành giao đất thực địa, hộ anh Hưng được giao diện tích đất 80m2 tại tờ bản đồ số 8 thửa số 87 ở xóm 8, Cát Lại, Bình Nghĩa.
Theo lời khai của nguyên đơn chị Trịnh Thị Lệ trình bày vì trong thời gian được cấp đất anh Hưng đi lao động xuất khẩu tại Malaysia, chị thì đang nuôi con nhỏ nên đã nhờ ông Đức đi nộp hộ số tiền 5.200.000đ cho UBND xã để được giao đất và ký nhận đất thực địa. Đến năm 2007, anh chị xây dựng 1 căn nhà 2 tầng trên 1/2 diện tích mảnh đất được cấp, khi đó anh Hưng vẫn đang ở nước ngoài nên vợ chồng chị nhờ ông Đức đứng ra quán xuyến, trả tiền vật liệu, công xây dựng, còn tiền xây nhà là của chị buôn bán tiết kiệm được và tiền do anh Hưng gửi về. Cuối năm 2007 chị và cháu Thọ đã dọn ra ở tại ngôi nhà này, sau đó năm 2008 anh Hưng về nước sống cùng mẹ con chị. Tháng 01/2009 do vi phạm pháp luật, chị bị Tòa án xử phạt 05 năm tù, ngày 31/8/2012 thì chấp hành xong hình phạt. Trong thời gian chị chấp hành án, anh Hưng xin ly hôn chị và được Tòa án xử cho ly hôn. Khi về địa phương chị mới biết nhà, đất của chị và anh Hưng là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa được phân chia đã bị ông Đức, bà Hà chuyển nhượng cho hai người khác nhau, trong đó chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Tiếp, bà Trần Thị Hiên diện tích 44m2 và căn nhà 2 tầng trên phần đất này. Vì vậy chị khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 26/12/2011 giữa ông Đức, bà Hà với ông Tiếp, bà Hiên vô hiệu để trả lại tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của chị và anh Hưng.
Bị đơn ông Đức, bà Hà trình bày: Năm 2002 ông Đức cũng nộp đơn cho UBND xã xin được cấp đất để sau này cho các con nhưng không thuộc diện được duyệt cấp đất. Tháng 05/2003 anh Hưng đi lao động tại Malaysia, đến tháng 11/2003 khi được UBND xã Bình Nghĩa thông báo hộ anh Hưng được duyệt cấp đất, ông đã gọi điện thông báo cho anh Hưng thì anh Hưng nói không có tiền, không có nhu cầu mua đất nữa, chuyển quyền mua thửa đất trên cho ông, ông thông báo cho chị Lệ biết việc này nhưng chị Lệ không có ý kiến gì. Ngày 20/11/2003 anh Hưng đã viết giấy xin chuyển quyền được mua, sử dụng đất ở cho ông Đức và được UBND xã Bình Nghĩa đồng ý, vì thế ông bà đã bỏ số tiền 5.200.000đ nộp cho UBND xã Bình Nghĩa để được giao đất. Sau đó ông bà vượt lập, đến năm 2007 thì bỏ tiền, thuê thợ xây 01 nhà 2 tầng trên 1/2 diện tích thửa đất và cho mẹ con chị Lệ ra ở nhờ để trông coi nhà. Đến năm 2008 anh Hưng về nước thì ông bà tiếp tục cho anh Hưng, chị Lệ ở nhờ, sau đó xảy ra việc chị Lệ vi phạm pháp luật bị xử phạt tù. Năm 2010 anh Hưng ly hôn chị Lệ. Năm 2010 ông Đức đề nghị UBND xã tách thửa đất số 87 thành hai thửa 177 và 178, sau đó ông bà chuyển nhượng 36m2 cho ông Hoàng Văn Hiền, bà Phạm Thị Yến. Ngày 26/12/2011 chuyển nhượng 44m2 còn lại và căn nhà 2 tầng trên đất cho ông Tiếp, bà Hiên. Nay ông Đức, bà Hà không đồng ý với yêu cầu của chị Lệ, ông bà xác định đây là tài sản hợp pháp của ông bà nên có quyền chuyển nhượng cho người khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Minh Hưng trình bày: Năm 2001 anh và chị Lệ tổ chức lễ cưới, đến ngày 08/5/2002 anh chị mới đến UBND xã để đăng ký kết hôn. Tháng 02/2002 anh nộp đơn lên UBND xã Bình Nghĩa xin cấp đất làm nhà. Sau đó đến tháng 5/2003 anh đi xuất khẩu lao động tại Malaysia, một thời gian sau thì bố anh là ông Đức thông báo anh được duyệt cấp đất thổ cư, lúc đó anh không có tiền nộp nên đã viết giấy từ chối không nhận tiêu chuẩn được cấp đất nữa và chuyển quyền mua đất cho bố anh. Đến năm 2008 anh về nước, anh và chị Lệ được bố mẹ cho ở nhờ tại căn nhà 2 tầng trên thửa đất này. Tháng 10/2008 chị Lệ thuê người chém gây thương tích cho anh và bị Tòa án xử phạt tù, đến năm 2010 anh đề nghị và được Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Lệ. Nay anh xác định nhà, đất mà bố mẹ anh đã chuyển nhượng cho ông Tiếp, bà Hiên là tài sản hợp pháp của bố mẹ anh, không phải là tài sản chung của anh và chị Lệ trong thời kỳ hôn nhân.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Tiếp (bà Hiên ủy quyền cho ông Tiếp tham gia tố tụng) trình bày: Do nhu cầu về nhà ở của gia đình, vợ chồng ông được biết ông Trần Minh Đức có thửa đất và nhà trên đất muốn chuyển nhượng, thấy phù hợp vợ chồng ông đã gặp, thỏa thuận với vợ chồng ông Đức làm hợp đồng chuyển nhượng 44m2 đất + nhà 2 tầng trên đất với giá 525.000.000đ. Hợp đồng chuyển nhượng được thiết lập vào ngày 26/12/2011, được UBND xã Bình Nghĩa xác nhận. Nay chị Lệ yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu để trả lại đất, nhà trên đất là tài sản chung của chị Lệ và anh Hưng trong thời kỳ hôn nhân ông bà không nhất trí. Nếu chị Lệ chứng minh được nhà, đất của chị Lệ và anh Hưng thì ông bà sẽ trả lại nhà, đất cho ông Đức, bà Hà và ông Đức, bà Hà phải có trách nhiệm trả lại cho vợ chồng ông 525.000.000đ. Ngoài ra yêu cầu ông Đức, bà Hà phải thanh toán trả cho ông bà tiền chi phí một số tài sản ông bà đã xây, sửa thêm như mái tôn, tường bao, cổng, giếng khoan với tổng số tiền là 25.000.000đ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2015/DSST ngày 09/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bình Lục đã quyết định: Căn cứ các Điều 122, 127, 132, 137, 255, 256, 688, 691 Bộ luật dân sự; Điều 105 khoản 1 Điều 136 Luật đất đai 2003.: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị Lệ. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 26/12/2011 giữa ông Trần Minh Đức, bà Đỗ Thị Thu Hà với ông Nguyễn Văn Tiếp, bà Trần Thị Hiên vô hiệu.
- Buộc ông Nguyễn Văn Tiếp, bà Trần Thị Hiên phải hoàn trả lại cho ông Trần Minh Đức, bà Đỗ Thị Thu Hà 44m2 đất ở và 01 căn nhà hai tầng trên đất thuộc thửa đất số 87, tờ bản đồ số 8 tại xóm 8 Cát Lại, xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (có tuyên tứ cạnh của thửa đất). Buộc ông Trần Minh Đức, bà Đỗ Thị Thu Hà phải hoàn trả lại cho ông Nguyễn Văn Tiếp, bà Trần Thị Hiên số tiền 525.000.000đ là tiền mà ông Tiếp, bà Hiên đã thanh toán cho ông Đức, bà Hà khi giao dịch chuyển nhượng nhà, đất. Chấp nhận thỏa thuận của ông Nguyễn Văn Tiếp và ông Trần Minh Đức về giá trị các tài sản mái tôn sân, dậu, cổng, tường bao, giếng khoan mà ông Nguyễn Văn Tiếp, bà Trần Thị Hiên làm thêm có giá trị 25.000.000đ. Buộc ông Đức, bà Hà phải thanh toán trả cho ông Tiếp, bà Hiên số tiền 25.000.000đ, là tiền ông Tiếp, bà Hiên đã chi phí làm thêm phần tài sản là mái tôn sân, dậu, cổng, tường bao, giếng khoan. Như vậy, tổng cộng ông Trần Minh Đức, bà Đỗ Thị Thu Hà phải trả cho ông Nguyễn Văn Tiếp, bà Trần Thị Hiên số tiền 550.000.000đ.
Buộc ông Trần Minh Đức, bà Đỗ Thị Thu Hà phải trả lại cho anh Trần Minh Hưng, chị Trịnh Thị Lệ 44m2 đất ở và 01 căn nhà hai tầng trên đất thuộc thửa đất số 87, tờ bản đồ số 8 tại xóm 8 Cát Lại, xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (có tứ cạnh).
Buộc ông Trần Minh Đức, bà Đỗ Thị Thu Hà phải thanh toán trả chị Trịnh Thị Lệ tiền chi phí cho việc khảo sát, đo đạc, định giá tài sản là 2.750.000đ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí dân sự sơ thẩm, nghĩa vụ chịu chi phí định giá tài sản và quyền kháng cáo.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn ông Đức và người liên quan anh Hưng kháng cáo toàn bộ bản án. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện VKSND tỉnh Hà Nam đề nghị HĐXX tuyên hủy án sơ thẩm vì có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. HĐXX phúc thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án vì những lý do sau:
Nguyên đơn chị Trịnh Thị Lệ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Đức, bà Hà với ông Tiếp, bà Hiên vô hiệu; yêu cầu ông Đức, bà Hà trả lại nhà, đất là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của chị Lệ, anh Hưng. Tòa án cấp sơ thẩm mới chỉ giải quyết được một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đó là: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lệ tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Đức, bà Hà với ông Tiếp, bà Hiên vô hiệu, buộc ông Đức, bà Hà trả lại đất cho chị Lệ, anh Hưng. Còn đối với yêu cầu khởi kiện buộc ông Đức, bà Hà trả lại tài sản gắn liền với đất là ngôi nhà 2 tầng do chị Lệ và anh Hưng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì theo ý kiến của bị đơn ông Đức cho rằng ngôi nhà trên đất là tiền của ông, bà bỏ ra xây, tiền thuế đất ông đóng hàng năm, khoản tiền 5.200.000đ do ông nộp để được cấp đất. Chị Lệ cũng chưa đưa ra được căn cứ chứng minh việc bỏ tiền ra xây ngôi nhà này và nộp tiền cấp đất (5.200.000đ). Tòa án cấp sơ thẩm nhận định khoản tiền 5.200.000đ và ngôi nhà trên đất được tách ra giải quyết bằng một vụ kiện khác, song tại phần quyết định của bản án sơ thẩm lại buộc ông Đức, bà Hà phải trả lại cho anh Hưng, chị Lệ căn nhà 2 tầng trên đất là mâu thuẫn với phần nhận định và không phù hợp với các chứng cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản trên đất của đương sự thu thập trong hồ sơ vụ án.
Đây là vụ án có nhiều quan hệ pháp luật, các yêu cầu của đương sự có liên quan với nhau cần phải được giải quyết đồng thời mới triệt để, mới đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự và đảm bảo cho việc thi hành án. Việc Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa khách quan, giải quyết chưa triệt để nhiều quan hệ có liên quan với nhau theo yêu cầu của các đương sự là vi phạm các Điều 5, 163 BLTTDS và Điều 2, 4, 12 Nghị quyết 05 ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Do Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng tố tụng Tòa án cấp phúc thẩm không khắc phục được, nếu khắc phục sẽ không đảm bảo quyền kháng cáo cho các đương sự, vi phạm hai cấp xét xử nên HĐXX phúc thẩm đã hủy toàn bộ bản sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
TH