Nghiên cứu về cơ chế tâm lý - xã hội của hành vi phạm tội cụ thể, GS.TS. Võ Khánh Vinh nhận định: “Cơ chế của hành vi phạm tội là một hiện tượng động, là sự tác động lẫn nhau nhất định trong các yếu tố cấu thành nó. Các yếu tố cá nhân bên trong của cơ chế hành vi phạm tội là những quá trình và trạng thái tâm lý được xem xét trong trạng thái động, không tách rời mà là ở trong sự tác động lẫn nhau với các nhân tố của môi trường bên ngoài quyết định hành vi đó.” Cơ chế của hành vi phạm tội bao gồm ba khâu cơ bản: Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm; việc kế hoạch hóa các hoạt động phạm tội; việc trực tiếp thực hiện tội phạm.
Theo đó:
Khâu thứ nhất bao gồm các nhu cầu cá nhân, các ý định, dự định, kế hoạch và lợi ích trong đời sống hàng ngày của họ. Các nhu cầu, ý định, dự định, kế hoạch và lợi ích trong sự tác động lẫn nhau với hệ thống các định hướng giá trị của cá nhân sinh ra các động cơ của hành vi phạm tội.
Khâu thứ hai của cơ chế hành vi phạm tội là sự cụ thể hóa tính động cơ vào kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội. Ở đây, chủ thể xác định các mục đích của mình, cũng như các biện pháp, địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm và có các quyết định thích ứng.
Khâu thứ ba là việc trực tiếp thực hiện tội phạm. Nó bao gồm cả hành động (không hành động) phạm tội của chủ thể lẫn việc gây ra các hậu quả có hại cho xã hội.
Sơ đồ hóa cơ chế hành vi phạm tội cụ thể
Trên cơ sở cơ chế khái quát của hành vi phạm tội và việc xem xét các yếu tố tham gia điều chỉnh hành vi phạm tội, có thể khái quát một số nhóm cơ chế của hành vi phạm tội như sau:
(1) Cơ chế của hành vi phạm tội liên quan tới sự biến dạng các nhu cầu và lợi ích của cá nhân.
(2) Cơ chế của hành vi phạm tội có liên quan tới mâu thuẫn giữa các nhu cầu, lợi ích và các khả năng của chủ thể.
(3) Cơ chế của hành vi phạm tội có liên quan tới sự biến dạng các quan niệm về đạo đức, về pháp luật, về các định hướng giá trị và mục đích xã hội của cá nhân.
(4) Cơ chế của hành vi phạm tội có liên quan với các khuyết tật, sai sót trong quá trình ra và thực hiện quyết định.
Từ những nghiên cứu trên, định nghĩa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy được rút ra như sau: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy chính là sự tác động qua lại giữa các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự phát sinh của tình hình tội phạm về ma túy như là hậu quả của nó. Khái quát định nghĩa nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về ma túy: Nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về ma túy là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hiện tượng xã hội làm phát sinh các tội phạm về ma túy và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy với môi trường sống dẫn đến sự phát sinh tội phạm cụ thể trong nhóm tội phạm về ma túy.
Các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về ma túy
Nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường tự nhiên - địa lý
Tập trung phân tích, làm rõ những nét khái quát nhất, vừa đặc tả những yếu tố tiêu cực riêng, vừa mang hình ảnh minh họa tổng thể xét trên khía cạnh chung về đặc điểm môi trường tự nhiên - địa lý, như: Vị trí địa lý; dân số; địa hình; khí hậu, thuỷ văn; chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề đặc thù khác (tình trạng dân di cư tự do; tiềm ẩn các tệ nạn xã hội, giao thông; tỷ lệ hộ nghèo,...). Những yếu tố tiêu cực dẫn đến điều kiện kinh tế bị hạn chế là một trong những nguyên nhân cơ bản, trực tiếp dẫn đến những hành vi phạm tội cụ thể, và cũng là nguyên nhân sâu xa, cốt lõi làm phát sinh và duy trì sự tồn tại của tệ nạn ma túy, tội phạm về ma túy. Những nguyên nhân và điều kiện này là một phần hình thành nên đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy.
Nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là tổng hợp các mối quan hệ, ứng xử, giá trị nhân cách, tình cảm, đạo đức, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với cộng đồng, dân tộc. Vì thế, sự bền vững của gia đình chính là nền tảng phát triển xã hội tốt đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Gia đình là tế bào tự nhiên, đồng thời là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Môi trường xã hội của tình hình tội phạm là một khái niệm bao trùm, có phạm vi rộng lớn, trong đó, có môi trường gia đình, ở góc độ nghiên cứu mà luận án đưa ra còn có những phân định thành những bộ phận nhỏ hơn để nhận xét, đánh giá những yếu tố tiêu cực trong đó. Song, chúng tôi lựa chọn cách thức tiếp cận là chỉ đi vào những vấn đề chính, thực chất như vậy.
Nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường nhà trường
Nếu gia đình là cái nôi thứ nhất, thì nhà trường là cái nôi thứ hai góp phần quan trọng vào việc giáo dục và rèn luyện con người. Nhà trường ngoài việc truyền thụ kiến thức, còn làm nhiệm vụ giáo dục những phẩm chất nhân cách của học sinh và hoàn thiện những nhân cách ấy [4, tr.31]. Bên cạnh những thành tích tốt đẹp mà nhà trường dành được, còn có những hạn chế trong công tác giáo dục. Những thiếu sót đó tạo ra nhiều nguyên nhân và điều kiện thuận lợi tác động đến đối tượng tiềm ẩn nguy cơ phạm tội về ma túy. Điều 10 Luật Phòng, chống ma túy quy định: “Nhà trường và các cơ sở giáo dục có trách nhiệm: Tổ chức thực hiện chương trình giáo dục về phòng, chống ma tuý; giáo dục pháp luật về phòng, chống ma tuý và lối sống lành mạnh cho học sinh, sinh viên, học viên; quản lý chặt chẽ, ngăn chặn học sinh, sinh viên, học viên tham gia tệ nạn ma tuý. Phối hợp với gia đình, cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương để quản lý, giáo dục học sinh, sinh viên, học viên về phòng, chống ma tuý. Phối hợp với cơ quan y tế và chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm để phát hiện học sinh, sinh viên, học viên nghiện ma tuý.”
Nguyên nhân và điều kiện thuộc môi trường xã hội
Vai trò và trách nhiệm to lớn của Nhà nước trong cuộc đấu tranh này xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước với tính cách là một tổ chức quyền lực kết hợp sức mạnh chính trị, kinh tế và tư tưởng tạo nên một sức mạnh tổng hợp đủ khả năng giải quyết cơ bản các vấn đề của cuộc sống xã hội. Ở đây, nội dung chức năng xã hội của Nhà nước bao gồm trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm một môi trường xã hội an ninh và trong sạch, một xã hội dựa trên các giá trị đạo đức, truyền thống và nhân văn, trong đó, mỗi con người đều có các điều kiện tự do phát triển và sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển của cộng đồng. Điều 11 Luật Phòng, chống ma túy quy định: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phòng, chống ma tuý ở cơ quan, đơn vị mình; phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia tệ nạn ma tuý; tuyên truyền, động viên cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân phát hiện, tố giác, đấu tranh với tệ nạn ma tuý.” Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi áp dụng cách phân loại nhằm bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống, là phân loại thành các yếu tố tiêu cực do nguyên nhân khách quan và yếu tố tiêu cực do nguyên nhân chủ quan. Tiếp cận trên cơ sở lấy Nhà nước, một chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, chủ thể bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và của toàn xã hội làm trung tâm để phân định.
C. Mác khi nói tới vai trò quản lý trong xã hội đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên một quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[1, tr.480]. Theo lý luận về hành chính Nhà nước ở Việt Nam, quản lý Nhà nước chính là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước do các cơ quan quản lý Nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực Nhà nước có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng thống nhất của Nhà nước.
Theo đó, để nghiên cứu các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội với Nhà nước là chủ thể quản lý thực tế, cần làm nổi bật những nội dung về mục đích quản lý, cơ chế quản lý, quyết định quản lý, thực hiện quyết định quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định quản lý gắn với tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy; kịp thời phát hiện những hạn chế trong công tác tổ chức lực lượng phòng ngừa các tội phạm về ma túy.
Nguyên nhân và điều kiện thuộc về nhân thân người phạm tội
Trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự tự do của mỗi cá nhân gắn liền với ý thức đạo đức, mà trước hết ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm toàn bộ những quan niệm về thiện - ác, tốt - xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, hạnh phúc, công bằng... cùng những nguyên tắc nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng trong xã hội.
Ý thức đạo đức có một quá trình phát triển lịch sử, gắn liền với sự phát triển của xã hội. Trong tác phẩm Dân chủ và Giáo dục (Một dẫn nhập vào triết lý giáo dục), John Deway viết:... “Bởi đạo đức liên quan đến hành vi, nên mọi thuyết nhị nguyên được đặt ra giữa trí óc và hoạt động ắt phải được thể hiện trong lý luận về đạo đức... Hành động có mục đích bao giờ cũng mang tính chủ tâm; nó đòi hỏi phải có một mục đích được thấy trước một cách hữu ích và một sự cân nhắc lợi hại trong đầu. Nó còn bao hàm một trạng thái hữu thức nóng lòng hoặc mong muốn đạt được mục đích. Sự lựa chọn có chủ tâm một mục tiêu và một xu hướng mong muốn ổn định, đòi hỏi phải có thời gian. Người ấy chưa đi đến một quyết định, chưa biết phải làm gì. Do đó, anh ta hoãn hành động càng lâu càng tốt.” [2, tr.405]
Tội phạm do cá nhân hoặc nhóm cá nhân người phạm tội thực hiện, vì vậy, nó không thể không mang đặc tính riêng biệt của cá nhân. Nghiên cứu nguyên nhân từ phía người phạm tội sẽ giúp chúng ta thấy được dấu hiệu nào của người phạm tội là dấu hiệu đặc trưng có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm. Việc làm rõ những yếu tố tiêu cực của người phạm tội được hình thành trong quá trình sống - tác nhân làm phát sinh tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Đây chính là cơ sở để nghiên cứu làm rõ nguyên nhân của tình hình tội phạm, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện môi trường sống có liên quan đến việc phát sinh tội phạm.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, do đó, môi trường xã hội có tác động sâu sắc đến quá trình thực hiện hành vi hóa của mỗi cá nhân con người. Qua nghiên cứu lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, chúng tôi đồng tình với quan điểm nhân thân của người cụ thể chính là tình hình về mọi mặt của một con người trong một giai đoạn nhất định, là hình thức riêng biệt của sự tồn tại những quan hệ xã hội. Nói cách khác, nhân thân của con người chính là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu phản ánh bản chất xã hội của con người trong từng giai đoạn cụ thể. Điều này phù hợp với quan điểm Mác - xít khi nói về bản chất con người: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu của từng cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Nhân thân người phạm tội là một trong những đối tượng nghiên cứu của tội phạm học và được hiểu là tổng hợp những đặc điểm, những dấu hiệu, những đặc tính quan trọng thể hiện bản chất xã hội của con người vi phạm pháp luật hình sự, các đặc điểm ấy kết hợp với điều kiện và các yếu tố khác ảnh hưởng đến cách xử sự chống đối xã hội của người đó. Nghiên cứu về quan hệ biện chứng giữa tình hình tội phạm và hành vi phạm tội, PGS.TS Phạm Văn Tỉnh cho rằng khái niệm tội phạm dưới góc độ của tội phạm học chỉ có thể được hiểu là hành vi phạm tội và khái niệm này được định nghĩa như sau: Hành vi phạm tội là kết quả không mong đợi của quá trình tương tác giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố tâm - sinh lý tiêu cực bên trong cá nhân chủ thể hành vi đã dẫn tới việc thực hiện hành động hoặc không hành động mà pháp luật hình sự xem là phạm tội [3, tr.60].
Nhân thân người phạm tội dưới góc độ của khoa học Luật Hình sự Việt Nam được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội (về các mặt tâm - sinh lý - xã hội, về nhân chủng học, dân tộc học), những đặc điểm có giá trị nhất định, cần thiết cho việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta, đặc biệt là cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nội dung (hình sự) này của khái niệm nhân thân người phạm tội trong Luật Hình sự hiện hành của Nhà nước ta phải được nhận thức và thu hút vào nội dung của khái niệm nhân thân người phạm tội trong tội phạm học Việt Nam. Bởi vì tư tưởng được xem như một nguyên tắc của việc nghiên cứu xây dựng và phát triển tội phạm học Việt Nam là: "Không những Luật Hình sự (lẽ ra phải là khoa học Luật Hình sự) mà cả tội phạm học có khách thể duy nhất (nguyên bản là đối tượng duy nhất) là những gì liên quan đến tội phạm (nguyên bản là hành vi phạm tội)…". "Tội phạm học chỉ nghiên cứu đến những gì đã dẫn đến tội phạm cụ thể và không thể có những kết luận ngoài những dấu hiệu do Luật Hình sự đã xác định về tội phạm. Như vậy, cùng một điểm xuất phát, tức là cùng một khách thể nghiên cứu chung - nhân thân người phạm tội, nhưng khoa học Luật Hình sự có mục đích khác với mục đích của tội phạm học. Vì thế, nhìn nhận một cách chi tiết hơn, sâu sát hơn sẽ thấy có sự khác nhau: Khoa học Luật Hình sự khai thác nhân thân người phạm tội để tìm kiếm những đặc điểm, những yếu tố có ý nghĩa có giá trị thiết thực cho việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta, đặc biệt là để giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Còn tội phạm học cũng khai thác những đặc điểm, những yếu tố nhân thân người phạm tội nhưng để trả lời câu hỏi tại sao con người đó lại phạm tội, đặc điểm nào, yếu tố nào đã dẫn dắt đến sự phạm tội của người đó, tức là tìm nguyên nhân của tội phạm để phòng ngừa. Chính vì mục đích của tội phạm học bao trùm như vậy nên hệ thống các đặc điểm, yếu tố thuộc nhân thân người phạm tội ở lĩnh vực tội phạm học phải bao trùm hơn, rộng hơn những gì mà khoa học Luật Hình sự đã khai thác. Và những đặc điểm, những yếu tố này không bắt buộc phải có hình thức pháp lý, tức là phải có sẵn trong Luật Hình sự, nhưng phải có mối liên hệ dẫn dắt tới sự phạm tội của chủ thể hành vi. Với cách nhìn nhận như vậy, khái niệm nhân thân người phạm tội trong tội phạm học có thể được định nghĩa như sau [3, tr.214, 215]: Trong tội phạm học, nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính - lãnh thổ nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm - sinh lý - xã hội, nhân khẩu - nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá trị thiết thực cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy nên dựa trên cách tiếp cận về quá trình hình thành nhân thân người phạm tội với hai góc độ về những sai lệch thuộc ý thức cá nhân người phạm tội; kế hoạch hóa và hiện thực hóa hành vi phạm tội. Nghiên cứu kết hợp giữa mức độ sai phạm của ý thức cá nhân và khuynh hướng giá trị cá nhân, trong phạm vi nghiên cứu, nên phân tích khái quát những người phạm tội về ma túy và phân định ở những khía cạnh chính, cốt lõi là sự tác động giữa các đặc điểm về nhân thân người phạm tội, cụ thể: Các nguyên nhân và điều kiện về nhân chủng học - xã hội của người phạm tội về ma túy (Đặc điểm về địa lý học; đặc điểm về độ tuổi; đặc điểm về giới tính; đặc điểm về nghề nghiệp, thành phần xã hội). Các nguyên nhân và điều kiện về đạo đức, tâm lý của những người phạm tội về ma túy.
Tiến sĩ Đỗ Thành Trường
Trưởng phòng, Phòng Tham mưu tổng hợp,
Văn phòng VKSND tối cao