Truy tố là giai đoạn thứ ba trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là hoạt động thể hiện đặc trưng nhất chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhằm xem xét, quyết định...
Truy tố là giai đoạn thứ ba trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là hoạt động thể hiện đặc trưng nhất chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhằm xem xét, quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Tại giai đoạn này, Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật, trọng tâm là pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, sử dụng các quyền năng pháp lý của mình tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong các giai đoạn tố tụng trước đó, trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra một trong các quyết định: Truy tố bị can; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKSND được quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định, hành vi tố tụng mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát ban hành trong giai đoạn này được thực hiện chính xác, khách quan, toàn diện. Khi quyết định truy tố (bằng bản cáo trạng hay bằng quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn) thì có nghĩa là Viện kiểm sát đã đảm bảo tất cả các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại Điều 85 BLTTHS được giải quyết một cách triệt để, đảm bảo cho quyết định truy tố của mình có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Chất lượng quyết định truy tố phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như: Khả năng, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kỹ năng xây dựng cáo trạng, quyết định truy tố… Để đánh giá một quyết định truy tố có chất lượng, cần dựa vào các tiêu chí cơ bản sau:
- Không vi phạm thủ tục tố tụng trong giai đoạn truy tố.
- Không bị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS; bỏ lọt tội phạm, hành vi phạm tội; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Viện kiểm sát không rút toàn bộ quyết định truy tố; tại phiên tòa, Kiểm sát viên không rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận bị cáo về tội nhẹ hơn (ngoại trừ những trường hợp phát sinh tình tiết mới trong giai đoạn điều tra, truy tố không thể dự liệu được).
- Hình thức bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn được trình bày đúng mẫu số 144/HS (Mẫu cáo trạng) và mẫu số 165/HS (quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn) ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao; đúng theo thể thức trình bày văn bản theo Quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 393/QĐ-VKSTC.
- Nội dung cáo trạng (quyết định truy tố) phải được trình bày đầy đủ các đề mục theo quy định tại Điều 243 (Điều 461) BLTTHS và hướng dẫn trình bày cáo trạng tại mẫu số 144/HS, quyết định truy tố tại mẫu số 165/HS ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao. Lập luận trình bày, phân tích hành vi phạm tội, pháp luật áp dụng phải chặt chẽ, súc tích, chính xác.
- Kết quả xét xử, Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo tội danh, khung hình phạt theo đúng quan điểm truy tố của Viện kiểm sát.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng quyết định truy tố của VKSND hai cấp tỉnh Kiên Giang, hạn chế thấp nhất các trường hợp truy tố thiếu căn cứ, sai tội danh, sai khung hình phạt, tác giả đề ra một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, nâng cao toàn diện chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hiện đầy đủ quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát được quy định trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra để đảm bảo khi kết thúc điều tra thì tất cả các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại Điều 85 BLTTHS phải được giải quyết một cách khách quan, toàn diện, triệt để, hạn chế thấp nhất trường hợp sang giai đoạn xét xử, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, Viện kiểm sát phải rút quyết định truy tố, kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa.
Để làm tốt yêu cầu này, Viện kiểm sát phải vận dụng triệt để quyền năng pháp lý của mình được quy định tại Điều 165, Điều 166 BLTTHS, cùng song hành với Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội một cách khách quan, toàn diện, đúng quy định. Kiểm sát viên trực tiếp được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải kiểm sát chặt chẽ tiến trình, hoạt động điều tra; nắm chắc các quy định về phần chung và phần các tội phạm quy định trong BLHS và các văn bản hướng dẫn, đặc biệt là các yếu tố cấu thành tội phạm đối với các loại tội phạm có hành vi khách quan có tính chất tương đồng, dễ bị nhầm lẫn trong việc định tội danh, định khung hình phạt; khai thác toàn diện các nội dung, tình tiết có trong hồ sơ vụ án, từ đó so sánh, đối chiếu, phác họa toàn diện những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án để đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu Điều tra viên kiểm tra, xác minh, làm rõ từng vấn đề. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên trong thu thập, đánh giá chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, tham gia đầy đủ các hoạt động thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra như: Khám nghiệm hiện trường, khám xét, nhận dạng, hỏi cung, đối chất.....đảm bảo chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thu thập, thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS, kịp thời phát hiện vi phạm, đề xuất biện pháp yêu cầu, kiến nghị khắc phục.
Trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên phải hệ thống đầy đủ các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội của bị can, kiểm tra các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự đã được chứng minh đầy đủ hay chưa, có cần bổ sung tài liệu, chứng cứ nào hay không, tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để truy tố bị can ra Tòa hay không. Cần thiết, Kiểm sát viên có thể tự mình trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định pháp luật nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo đúng quy định nhằm loại trừ những hậu quả tiêu cực có thể phát sinh từ những sơ xuất, sai lầm hoặc các vấn đề chưa phát hiện, chưa chứng minh được trong quá trình điều tra.
Lãnh đạo đơn vị cần đặc biệt quan tâm, chú trọng đến việc nghe báo cáo án, trực tiếp trao đổi với Kiểm sát viên để kiểm tra, nắm bắt về nội dung vụ án; từ đó, có hướng chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trong vụ án để Kiểm sát viên có hướng giải quyết, xử lý kịp thời; phải đảm bảo bản cáo trạng (quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn) khi ban hành được xây dựng một cách chặt chẽ về nội dung lẫn thể thức theo đúng mẫu số 144/HS và mẫu số 165/HS ban hành kèm theo Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSND tối cao.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Kiểm sát viên phải thực hiện đầy đủ các thao tác nghiệp vụ, trọng tâm là báo cáo án, dự thảo luận tội,...theo đúng quy định của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và KSXX các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/10/2017 của VKSND tối cao. Trong quá trình thực hành quyền công tố tại phiên toà, Kiểm sát viên phải tập trung theo dõi mọi diễn biến của phiên toà, chủ động tham gia xét hỏi để góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án; xoáy sâu vào những vấn đề còn mâu thuẫn, chưa được làm rõ, các chứng cứ, tài liệu mới bổ sung tại phiên tòa. Nếu qua quá trình xét hỏi công khai tại phiên tòa có cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo không đúng như nội dung truy tố thể hiện tại bản cáo trạng thì Kiểm sát viên phải kịp thời tham mưu, báo cáo lãnh đạo Viện xin ý kiến về đường lối giải quyết. Tùy theo từng trường hợp, Kiểm sát viên có thể rút toàn bộ, một phần hay kết luận bị cáo về tội nhẹ hơn để bảo đảm việc truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội.
Đối với các trường hợp Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo không đúng khung hình phạt, không đúng tội danh Viện kiểm sát truy tố, nếu việc áp dụng pháp luật Hội đồng xét xử là không có căn cứ thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo lãnh đạo Viện có biện pháp tác động (kiến nghị, kháng nghị) theo đúng trình tự, quy định pháp luật nhằm bảo vệ quan điểm truy tố đúng đắn của Viện kiểm sát, khắc phục vi phạm, bảo đảm việc giải quyết vụ án nghiêm minh, đúng quy định pháp luật.
Thứ hai, nâng cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng.
Thực tiễn chứng minh người bào chữa có vai trò quan trọng trong quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích của bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng, góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Do đó, Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện quyền bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra, đồng thời bảo đảm, tạo điều kiện cho người bào chữa tham các hoạt động theo đúng quy định pháp luật ở giai đoạn truy tố. Việc bảo đảm cho người bào chữa được tham gia các hoạt động điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai những người tham gia tố tụng, thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu …theo quy định tại Điều 73 BLTTHS sẽ nâng cao tính thận trọng, tuân thủ pháp luật của những người tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, hạn chế vi phạm thủ tục tố tụng. Việc tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quyền của họ thì hoạt động tố tụng sẽ bảo đảm tính khách quan và toàn diện hơn, tránh những sai sót, vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát phải yêu cầu, kiến nghị người bào chữa tuyệt đối tuân thủ quy định pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ của mình, không gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ ba, nâng cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và giải quyết án hình sự.
Trước hết, cần kiện toàn bộ máy làm việc của đơn vị mình theo hướng sắp xếp và tăng cường cho những đơn vị, bộ phận còn yếu, phân công nhiệm vụ phù hợp với sở trường, chuyên môn của từng Kiểm sát viên; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là đối với các đơn vị có nhiều vi phạm, thiếu sót trong việc giải quyết các vụ án hình sự; xử lý nghiêm minh cán bộ, Kiểm sát viên vi phạm pháp luật và quy chế của Ngành.
Lãnh đạo các đơn vị cần tập trung chỉ đạo, quan tâm sâu sát đến quá trình thực hiện các thao tác nghiệp vụ của Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng. Đặc biệt, thông qua việc phê chuẩn các quyết định tố tụng, nghe báo cáo án, trao đổi về đường lối giải quyết vụ án, lãnh đạo các đơn vị cần gợi ý, nhắc nhở Kiểm sát viên lưu ý những vấn đề hay xảy ra sai sót, vi phạm trong quá trình giải quyết án, đồng thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc kịp thời. Đối với các vụ án phức tạp, dấu hiệu cấu thành tội phạm không rõ ràng, khó xác định tội danh, phải báo cáo thỉnh thị, tham khảo ý kiến của Viện kiểm sát cấp trên trước khi quyết định các hoạt động tố tụng.
Viện kiểm sát cấp trên tăng cường công tác hướng dẫn và rút kinh nghiệm nghiệp vụ đối với những vi phạm, thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật của cấp dưới để chấn chỉnh kịp thời, đảm bảo cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, việc vận dụng pháp luật được thống nhất, nghiêm minh.
Thứ tư, tăng cường công tác phối hợp liên ngành, phối hợp giữa hai cấp Kiểm sát.
Bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành, cần tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện nghiêm quy chế phối hợp đã ký kết giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp trên cơ sở tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành theo quy định của pháp luật và quy định của Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS; Thông thư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu phát sinh khó khăn, vướng mắc, không thống nhất về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đường lối xử lý hoặc nhận thức khác nhau về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng thì Viện kiểm sát cấp dưới cần chủ động trao đổi, thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên, đồng thời phối hợp, trao đổi trực tiếp với Cơ quan điều tra, Tòa án cùng cấp họp liên ngành để thống nhất đường lối giải quyết, hạn chế các trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều lần. Trường hợp không thống nhất được thì xin ý kiến chỉ đạo liên ngành tố tụng cấp trên để có sự thống nhất trong đường lối giải quyết.
Thứ năm, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Kiểm sát viên.
Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định chất lượng truy tố của Viện kiểm sát. Để nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, việc quán triệt thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Chỉ thị của Ngành về công tác tư pháp, đặc biệt là nhiệm vụ nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, phòng chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm là rất cần thiết. Trên cơ sở đó, định hướng cho Kiểm sát viên đề cao tinh thần trách nhiệm; tự học tập, tự rèn luyện, đúc kết kinh nghiệm để nâng cao bản lĩnh chính trị, kỹ năng nghiệp vụ; đẩy mạnh nghiên cứu, nắm vững các quy định của pháp luật, đặc biệt là những quy định mới của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành để phục vụ tốt cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đồng thời, thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử từng vụ án, lãnh đạo từng đơn vị phải có những đánh giá thực chất về kết quả thực thi nhiệm vụ của từng Kiểm sát viên, kịp thời khen thưởng, biểu dương những thành tích tốt trong công tác; nhắc nhở, kiểm điểm, tổ chức rút kinh nghiệm chung những trường hợp để xảy ra vi phạm, thiếu sót trong quá trình giải quyết án. Kiểm sát viên phải thường xuyên tự mình đánh giá lại kết quả hoạt động sau mỗi giai đoạn tố tụng, nghiêm túc rút kinh nghiệm những thiếu sót, tiếp thu ý kiến góp ý của đồng nghiệp với thái độ cầu thị để không ngừng hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao./.
Huỳnh Đạm, Phòng 7 – VKSND tỉnh Kiên Giang
(Theo Trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Kiên Giang)