Khái niệm “người bị buộc tội” chưa đầy đủ; các quy định liên quan đến quyền của người bào chữa, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức cá nhân khác liên quan đến việc bảo đảm quyền cho người bào chữa chưa rõ ràng, cụ thể... là những hạn chế trong chế định người bào chữa. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về vấn đề này nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 đã bổ sung, hoàn thiện các quy định về người bào chữa, làm nền tảng cho việc thực hiện hiệu quả nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa không chỉ trong giai đoạn xét xử mà còn xuyên suốt quá trình tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy, vai trò của người bào chữa khi tham gia tố tụng chưa phát huy hết hiệu quả, quá trình thực hiện quyền của người bào chữa còn gặp khó khăn nhất định và bị giới hạn trong một số hoạt động tố tụng.
1. Một số bất cập, tồn tại trong quy định của pháp luật về chế định người bào chữa
Thứ nhất, khái niệm “người bị buộc tội” chưa thống nhất trong các điều luật của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung khái niệm “người bào chữa” tại khoản 1 Điều 72 như sau: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
Điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định người bị buộc tội bao gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, theo điểm g khoản 1 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Đồng thời, xét về bản chất, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng là người bị buộc tội, vì để đưa ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cơ quan có thẩm quyền phải có những tài liệu, chứng cứ nhất định về hành vi phạm tội của người đó. Quy định về “người bị buộc tội” và quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chưa có sự thống nhất. Vì vậy, cần điều chỉnh khái niệm “người bị buộc tội” để phù hợp với các quy định liên quan đến người bào chữa và quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Thứ hai, quy định về sự có mặt của người bào chữa chưa rõ ràng, cụ thể và còn chưa phù hợp trong một số trường hợp, cụ thể:
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định rõ về các trường hợp có mặt của người bào chữa trong các hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn về sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động tố tụng (điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định người bào chữa được quyền có mặt trong những “hoạt động điều tra khác”, còn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định theo hướng chi tiết hơn). Cụ thể, người bào chữa được quyền có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; …
Tuy nhiên, tại các điều luật cụ thể quy định về các hoạt động thu thập chứng cứ, quyền tham gia các hoạt động này của người bào chữa chưa được khẳng định rõ khi sử dụng các cụm từ “có thể”; “có thể cho”; “trường hợp cần thiết”. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến; có thể cho bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng tham gia và mời người có chuyên môn tham dự việc khám nghiệm”; khoản 3 Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra có thể mời người có chuyên môn tham gia. Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng có thể tham gia”.
Việc sử dụng những thuật ngữ được liệt kê tại các điều luật nêu trên cho thấy, sự có mặt của người bào chữa trong những hoạt động tố tụng này là không bắt buộc trong mọi trường hợp. Điều đó thể hiện sự không thống nhất giữa quy định chung về quyền của người bào chữa tại Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các quy định về hoạt động điều tra cụ thể có sự tham gia của người bào chữa. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không giải thích rõ thuật ngữ “trường hợp cần thiết”, “có thể” được hiểu như thế nào? Khi nào thì được xem là trường hợp cần thiết? Đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn, giải thích về các thuật ngữ này. Bởi vậy, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu chỉ dựa trên sự đánh giá chủ quan của mình có thể mời hoặc không mời người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định chưa rõ về thời gian thông báo cho người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng:
Mặc dù có quy định về trách nhiệm thông báo cho người bào chữa khi tham gia vào các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia, tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm hoạt động tố tụng họ có quyền tham gia. Vậy “thời gian hợp lý” được hiểu như thế nào?
Hiện nay, chỉ có Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (Thông tư số 46/2019) có quy định rõ về thời gian thông báo cho người bào chữa trước khi Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia. Tuy nhiên, đây là Thông tư của Bộ Công an quy định đối với Cơ quan điều tra, vậy trong trường hợp các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì thời gian thông báo cho người bào chữa có thể áp dụng theo Thông tư này hay không?
- Quy định về sự có mặt của người bào chữa trong một số trường hợp còn thiếu tính khả thi.
Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc người bị bắt (bắt quả tang hoặc bắt truy nã), theo quy định tại khoản 4 Điều 110 và khoản 1 Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 12 giờ. Tuy nhiên, các quy định về bảo đảm sự có mặt của người bào chữa (Điều 75), thủ tục đăng ký bào chữa (Điều 78) trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng như quy định của Thông tư số 46/2019 về thủ tục tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu nhờ người bào chữa của người đại diện hoặc người thân thích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cho thấy, việc bảo đảm sự có mặt của người bào chữa trong các buổi lấy lời khai đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt là thiếu tính khả thi.
Bên cạnh đó, Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa đối với trường hợp người bị buộc tội là bị can, người bị bắt, người bị tạm giữ, mà không quy định thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Điều này có nghĩa là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền được nhờ người bào chữa, nhưng lại không có quy định cụ thể để bảo đảm sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động lấy lời khai đối với họ. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định này theo hướng bảo đảm tính khả thi, giúp người bị buộc tội, người bào chữa có thể thực hiện hiệu quả quyền bào chữa trong quá trình tố tụng.
Thứ ba, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định cụ thể về hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo đề nghị của người bào chữa.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Theo đó, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Tuy nhiên, những quy định này vẫn chưa thật sự cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn cho người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ để thực hiện việc bào chữa.
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục gặp, hỏi người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng và những người khác của người bào chữa.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền của người bào chữa thì trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung, người bào chữa được quyền hỏi nếu được sự đồng ý của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Sau khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung thì người bào chữa được quyền chủ động hỏi. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có hướng dẫn về thủ tục này. Vậy người bào chữa có được gặp riêng những người này không, hay chỉ được gặp và hỏi những người này khi có sự tham gia của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trong quá trình gặp và hỏi thì có phải lập biên bản hay không; quá trình người bào chữa hỏi có phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hay không; trách nhiệm của người bào chữa trong trường hợp có hành vi mớm cung, thông cung, gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là gì?
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi người bào chữa đề nghị cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa, nhưng lại không quy định các điều khoản ràng buộc về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân này. Điều này gây ra những khó khăn nhất định đối với người bào chữa trong quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu. Vì các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi được đề nghị cung cấp thông tin, tài liệu có thể không cung cấp hoặc nếu có thì thường không cung cấp đầy đủ theo yêu cầu của người bào chữa hoặc kéo dài thời gian cung cấp.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khái niệm “người bị buộc tội”.
Như trên đã phân tích, để bảo đảm sự phù hợp giữa khái niệm “người bị buộc tội” và quy định về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, cần sửa đổi khái niệm “người bị buộc tội” theo hướng bổ sung người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Theo đó, cần sửa đổi điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Người bị buộc tội là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Thứ hai, hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cụ thể:
- Để bảo đảm sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội, đồng thời, hạn chế việc áp dụng pháp luật tùy nghi trong việc bảo đảm sự có mặt của người bào chữa, cần có văn bản hướng dẫn giải thích rõ thuật ngữ “có thể”, “trường hợp cần thiết” tại các điều 201, 204 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Cần có văn bản hướng dẫn về thời gian thông báo cho người bào chữa trước khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia. Có thể tham khảo nội dung Thông tư số 46/2019 để ban hành văn bản hướng dẫn về vấn đề này, cụ thể: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án phải thông báo cho người bào chữa thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia, tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp người bào chữa cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc; 48 giờ đối với trường hợp người bào chữa cư trú khác tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc trước ngày tiến hành hoạt động tố tụng; trường hợp người bào chữa nhất trí với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thời hạn sớm hơn thì thực hiện theo thỏa thuận đó.
- Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa khi thực hiện quyền bào chữa đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại đoạn 2 Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”.
Đồng thời, để bảo đảm tính khả thi về sự có mặt của người bào chữa khi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có yêu cầu nhờ người bào chữa, cần đơn giản hóa thủ tục cấp đăng ký bào chữa để họ có thể tiếp cận người bào chữa trong thời gian sớm nhất. Có thể sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Trong thời hạn 24 giờ đối với trường hợp bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam; trong thời gian 02 giờ đối với trường hợp bào chữa cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng…”. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu xây dựng danh sách Luật sư thường trực đủ điều kiện để tham gia vào các hoạt động tố tụng, bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội ngay tại thời điểm người bị giữ, người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thứ ba, bổ sung, làm rõ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo đề nghị của người bào chữa.
- Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về thủ tục gặp, hỏi những người có liên quan, đặc biệt là thủ tục hỏi đối với người bị buộc tội khi kết thúc buổi lấy lời khai, hỏi cung bị can của người bào chữa như: Trình tự hỏi, biên bản, thời gian hỏi… Đồng thời, để bảo đảm cho việc thực hiện quyền của người bào chữa theo quy định của pháp luật, ngăn ngừa việc người bào chữa có thể thực hiện hành vi thông cung, mớm cung, cần quy định việc gặp, hỏi của người bào chữa đối với người bị buộc tội bắt buộc phải có sự tham gia của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Bên cạnh đó, quy định rõ trách nhiệm và chế tài xử lý trong trường hợp người bào chữa có những hành vi thông cung, mớm cung, hoặc có những hành vi khác gây cản trở hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
- Để bảo đảm hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, cần bổ sung quy định cụ thể về quan hệ phối hợp, hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp tài liệu cho người bào chữa và chế tài xử lý đối với những hành vi can thiệp, cản trở người bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ. Do vậy, có thể bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Người bào chữa thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 88 của Bộ luật này. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân lưu giữ tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa có trách nhiệm cung cấp cho người bào chữa khi có yêu cầu. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi can thiệp, cản trở người bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ thì tùy tính chất, mức độ mà xử lý theo quy định của pháp luật”.