CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm trong giải quyết vụ án hình sự

23/06/2021
Cỡ chữ:   Tương phản
Thông qua việc giải quyết vụ án Lê Tuấn Anh phạm tội “Cố ý gây thương tích” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản” bị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm tuyên hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2019/HSST ngày 23/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Q để điều tra lại. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội thấy có một số nội dung cần thông báo để các đơn vị trong Ngành rút kinh nghiệm, cụ thể như sau:

1. Tóm tắt nội dung và quá trình giải quyết vụ án

Từ tháng 3/2018, Lê Tuấn A vay anh Nguyễn Hải L 5.000.000 đồng. Trưa ngày 17/11/2018, L gọi điện yêu cầu A phải trả số tiền 5.000.000 đồng, dẫn đến hai bên cãi nhau. A điều khiển xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI I10 mang theo súng, hẹn L đến ngã tư BC. Khoảng 13 giờ ngày 17/11/2018, tại khu vực ngã tư BC thuộc khu phố 2 huyện D, tỉnh Q, A dùng súng bắn vào xe ô tô nhãn hiệu MAZDA3 do anh Ngô Thanh T điều khiển, Nguyễn Hải L ngồi bên ghế phụ, làm đạn xuyên qua thành xe trúng người anh Nguyễn Văn H ngồi ghế sau, làm xe bị hư hỏng gây thiệt hại xe trị giá 4.500.000đ, anh H bị thương tổn hại sức khỏe 13%. Sau khi gây án không thu được súng A dùng gây án.

Kết quả giám định xe ô tô nhãn hiệu MAZDA3 xác định: Tại cung trước hốc chắn bùn phía sau bên phải có vết thủng chắn bùn hướng từ sau về trước, từ ngoài vào trong kích thước (1,6 x 0,5) cm, tâm vết thủng cách sườn xe bên phải 18,5cm, cách mặt đất 62,5cm; nhựa tiếp giáp tay ghế phía sau bên phải có vết thủng nhựa hướng từ sau về trước, từ trái sang phải; dây bảo hiểm của ghế sau bên phải có một vết thủng dài 1,2cm, ghế sau bên phải cách thủng da và đệm mút; gác trước bên trái ghế sau bên phải cách thủng da và mút đệm; mặt ghế sau bên phải và ghế giữa sau dính chất màu nâu.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Tại khu vực ngã 4 đường nội thị thuộc tổ 5, khu phố 2, huyện D trên mặt đường nhựa, cách vị trí cột đèn giao thông bên phải 13,7 m về hướng Đông Nam và cách mép đường 1,55 m về phía nam có 01 vỏ đạn bằng kim loại màu đồng kích thước (01 x 2,5) cm; cách cột đèn giao thông 1,4 m về phía Nam có 01 viên đạn màu đồng có kích thước (01 x 3,5) cm.

Quá trình cấp cứu, bác sỹ đã lấy từ cẳng chân trái anh Nguyễn Văn H 01 đầu đạn màu nâu đồng có kích thước (1,5 x 0,7) cm.

Tại bản kết luận giám định số 02/QĐSĐ ngày 30/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Q kết luận:

- 01 vỏ đạn và 01 đầu đạn cần giám định là của loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm - 01 viên đạn cần giám định là loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm.

- Đạn cỡ (7,62 x 25) mm thuộc vũ khí quân dụng, được sử dụng cho súng K54, K50...

Tại Bản kết luận giám định số 1285/C09 (P3) ngày 18/3/2019 của Viện khoa học hình sự, Bộ công an xác định: 01 viên đạn, 01 vỏ đạn, 01 đầu đạn gửi giám định là đạn, vỏ đạn và đầu đạn của loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm sử dụng để bắn cho các loại súng thuộc vũ khí quân dụng và các loại súng tự tạo có ổ chứa lắp đạn lắp vừa đạn cỡ (7,62 x 25) mm không thuộc vũ khí quân dụng.

Theo bệnh án và các Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 618/18/TgT ngày 26/11/2018 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 163/19/TgT ngày 01/4/2019 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Q, đối với thương tích của anh Nguyễn Văn H, xác định: Anh H có các vết thương sau: Mặt sau mông phải sát nếp lằn mông có vết thương dài 12cm hình tròn, bờ mép nham nhở, không rõ độ sâu; mặt trong 1/3 trên đùi phải có vết thường dài khoảng 02cm hình tròn, bờ mép nham nhở, không rõ độ sâu; mặt sau 1/3 cẳng chân trái có vết thương dài khoảng 02cm hình tròn, bờ mép nham nhở, không rõ độ sâu (rạch rộng vết thương lấy 01 dị vật hình bầu dục bằng kim loại, rách bán cơ bụng chân, gãy xương mác). Sẹo vết mổ mở rộng qua lỗ vào ở sát nếp lằn mông đùi phải, dẫn lưu 4 dưới mông ngoài phải. Sẹo vết thương và vết mổ mở rộng qua hai đầu vết thương ở 1/3 mặt trong đùi phải, sẹo vết mổ mở rộng qua vết thương 1/3 trên cẳng chân trái (tỷ lệ tổn thương sức khỏe 09%); gãy 1/3 trên xương mác trái hiện tại xương đã can, không di lệch (tỷ lệ tổn hại sức khỏe 04%). Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%. Các tổn thương trên do hỏa khí gây nên, không phát hiện thấy dấu vết của tầm kề và tầm gần, hướng từ phải sang trái, lỗ vào sát nếp lằn mông qua 1/3 trên mặt trong đùi phải đến 1/3 trên mặt sau cẳng chân trái.

Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2019/HS-ST ngày 23/8/2019, của TAND huyện D quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn A phạm tội “Cố ý gây thương tích” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134 (với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm d khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự (BLHS). Xử phạt bị cáo Lê Tuấn Anh: 27 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; 24 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 51 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2018.

Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nên đã có hiệu lực pháp luật.

Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 23/QĐ-VC1-HS ngày 21/8/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2019/HSST ngày 23/8/2019 của TAND huyện D, tỉnh Q về bỏ lọt tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, xác định không đúng tội danh của bị cáo Lê Tuấn A, bỏ lọt đồng phạm phạm tội cùng Lê Tuấn A và phần quyết định hình phạt đối với bị cáo Lê Tuấn A đối với tội “Cố ý gây thương tích”; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại.

Quyết định Giám đốc thẩm số 10/2021/HS-GĐT ngày 05/3/2021 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội quyết định: Chấp nhận toàn bộ kháng nghị Giám đốc thẩm của VKSND cấp cao tại Hà Nội: Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 61/2019/HSST ngày 23/8/2019 của TAND huyện D, tỉnh Q để điều tra lại.

2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

2.1. Về tố tụng

Đối với việc truy tìm khẩu súng là tang vật của vụ án:

Tại biên bản khám xe ô tô HYUNDAI I10 vào 10h ngày 19/11/2018, Cơ quan điều tra Công an huyện D khám nghiệm bên ngoài xe như đuôi xe, cụm đèn sau bên trái, bên phải, ba đờ xóc phía trước bên trái không tiến hành khám nghiệm bên trong xe, gầm ghế lái… Đến 9h10 ngày 08/12/2018, Lê Tuấn A ra đầu thú và khai nhận sau khi gây án giấu súng ở gầm ghế lái xe ô tô HYUNDAI I10 (chìa khóa vẫn cắm ở ổ xe). Nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện khám xe lại, truy tìm tang vật. Đến 10h ngày 28/12/2018 đã xử lý tang vật, trả xe trên cho anh Nguyễn Văn M (là chủ sở hữu xe). Hồ sơ không có tài liệu nào thể hiện việc Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát yêu cầu điều tra, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung để truy tìm tang vật gây án, rà soát nhân chứng biết tang vật là khẩu súng Lê Tuấn A dùng để bắn, là vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 88, Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự về thu thập chứng cứ và vật chứng vụ án.

2.2. Về nội dung

2.2.1. Về việc bỏ lọt tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”:

Cơ quan điều tra Công an huyện D có Công văn số 335 ngày 15/02/2019 yêu cầu Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Q có văn bản trả lời bổ sung nội dung: “Đạn và vỏ đạn thu giữ chỉ sử dụng được cho vũ khí quân dụng hay cả loại súng khác (như súng không phải là vũ khí quân dụng hoặc súng không có tính năng tác dụng như vũ khí quân dụng)”.

Tại Bản kết luận giám định số 1285/C09 (P3) ngày 18/3/2019 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an xác định: 01 viên đạn, 01 vỏ đạn, 01 đầu đạn gửi giám định là đạn, vỏ đạn và đầu đạn của loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm sử dụng để bắn cho các loại súng thuộc vũ khí quân dụng và các loại súng tự tạo có ổ chứa lắp đạn lắp vừa đạn cỡ (7,62 x 25) mm không thuộc vũ khí quân dụng.

Căn cứ Bản kết luận giám định số 1285/C09 (P3) ngày 18/3/2019 của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an; Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện D cùng nhận định, do không thu giữ được khẩu súng; cùng viên đạn, vỏ đạn và đầu đạn của loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm sử dụng để bắn cho các loại súng tự tạo có ổ chứa lắp đạn lắp vừa đạn cỡ (7,62 x 25) mm không thuộc vũ khí quân dụng, nên không có căn cứ xử lý bị can Tuấn A về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.

Cơ quan điều tra Công an huyện D đã ra Quyết định xử phạt hành chính số 122 ngày 03/5/2019 phạt tiền 3 triệu đồng đối với Lê Tuấn A về hành vi dùng súng bắn vi phạm trong lĩnh vực trật tự an toàn xã hội.

Thấy rằng: Mặc dù không thu giữ được khẩu súng mà A dùng gây án, nhưng căn cứ vào đầu đạn thu giữ, bản vẽ mô tả súng của bị cáo, lời khai nguồn gốc mua súng của bị cáo, biên bản khám xe và thương tích trên người bị hại H, đặc biệt lời khai của bị cáo đều thừa nhận dùng súng K54 để bắn và mua súng K54 ở cửa khẩu Lạng Sơn với giá 20.000.000 đồng. Lời khai của bị cáo phù hợp bản kết luận giám định số 02/QĐSĐ ngày 30/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Q. Cụ thể các tài liệu sau:

- Tại hiện trường thu được 01 vỏ đạn bằng kim loại màu đồng kích thước (01 x 2,5) cm; cách cột đèn giao thông 1,4 m về phía nam có 01 viên đạn màu đồng kích thước (01 x 3,5) cm. Quá trình cấp cứu, bác sỹ đã lấy ra từ cẳng chân trái của anh Nguyễn Văn H 01 đầu đạn màu nâu đồng có kích thước (1,5 x 0,7) cm.

- Theo bệnh án và các bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 618/18/TgT ngày 26/11/2016 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 163/19/TgT ngày 01/4/2019 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế tỉnh Q, đối với thương tích của anh Nguyễn Văn H. Thể hiện 3 vết thương của anh H có hướng viên đạn từ trên xuống dưới, hướng từ phải sang trái, lỗ vào sát nếp lằn mông phải xuyên qua 1/3 trên mặt trong đùi phải đến 1/3 trên mặt sau cẳng chân trái.

- Theo biên bản khám xe MAZDA3 hồi 9h5 ngày 19/11/2018: Tại cung trước hốc chắn bùn phía sau bên phải có vết thủng chắn bùn hướng từ sau về trước, từ ngoài vào trong kích thước (1,6 x 0,5) cm, tâm vết thủng cách sườn xe bên phải 18,5cm, cách mặt đất 62,5cm; nhựa tiếp giáp tay ghế phía sau bên phải có vết thủng nhựa hướng từ sau về trước, từ trái sang phải; dây bảo hiểm của ghế sau bên phải có một vết thủng dài 1,2cm, ghế sau bên phải cách thủng da và đệm mút; gác trước bên trái ghế sau bên phải rách thủng da và mút đệm; mặt ghế sau bên phải và ghế giữa sau dính chất màu nâu.

Như vậy, viên đạn bắn vào chắn bùn xe ô tô có hướng từ sau về trước, từ trái sang phải ngược với hướng bắn ở vết thương gây cho bị hại H là trên xuống dưới, hướng từ phải sang trái.

- Lời khai bị hại H; lời khai của T lái xe chở H; lời khai của L, ngồi ghế phụ xe của MAZDA3; Phạm Việt T (lái xe Prado), nhân chứng Z, V đi trên xe Prado. Đặc biệt nhân chứng Vũ Quang K, Phạm Thị C, Vũ Viết P là người ở nhà mặt đường tại hiện trường đều khẳng định: Người bắn súng đi trên xe HUYNDAI I10, ngồi ghế sau ghế phụ, dùng súng bắn 2 phát cách nhau 30-40 giây.

Đủ cơ sở khẳng định: Có hai phát súng liên thanh và phù hợp với lượng viên đạn, vỏ đạn, đầu đạn thu tại hiện trường, trong người bị hại và chứng thương của bị hại, biên bản khám xe.

Bản kết luận giám định số 02/QĐSĐ ngày 30/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Q kết luận:

- 01 vỏ đạn và 01 đầu đạn cần giám định là của loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm - 01 viên đạn cần giám định là loại đạn cỡ (7,62 x 25) mm.

- Đạn cỡ (7,62 x 25) mm thuộc vũ khí quân dụng, được sử dụng cho súng K54, K50...

* Cũng khẳng định yêu cầu giám định bổ sung của Công an huyện D là chưa đầy đủ bởi chưa làm rõ được các nội dung: Hai viên đạn trên có phải bắn ra từ 1 khẩu súng hay không? Đối với súng tự tạo có bắn được liên thanh hay không? Và súng tự tạo có đủ hỏa lực gây sát thường xuyên thấu vật kim loại cứng là cánh cửa xe và tiếp tục gây sát thương như thương tích của bị hại H không?

Do đó không có cơ sở khẳng định khẩu súng A sử dụng là súng tự tạo và việc yêu cầu giám định bổ sung của Công an huyện D là chưa có căn cứ do yêu cầu giám định bổ sung không đầy đủ và không khẳng định tính cá biệt của khẩu súng trong vụ án này, cũng như giám định bổ sung của Bộ Công an không phải là cơ sở khẳng định khẩu súng A gây án là súng tự tạo. Việc không xử lý hành vi tàng trữ vũ khí quân dụng của Tòa sơ thẩm là bỏ lọt tội đối với Lê Tuấn A.

2.2.2. Về xác định sai tội danh:

A chủ động hẹn L đến ngã tư BC, khi đi A chủ động mang theo súng K54 nhằm mục đích sử dụng súng bắn L. Phát hiện xe anh L, A đã hạ kính, rút súng K54 từ trong người thò qua cửa kính ở ghế phụ phía sau xe của anh L và bắn 1 phát. Bị cáo khai nhận dùng súng bắn vào lốp xe nhằm mục đích để xịt lốp xe cho xe dừng lại nhưng thực tế thấy rằng bị cáo Lê Tuấn A là người chủ động rượt đuổi theo xe của L, trên xe có 3 người và chủ động dùng súng bắn vào phía sau xe anh L làm đạn xuyên qua cánh cửa xe ô tô và gây thương tích cho bị hại H. Bị cáo phải biết được việc dùng súng đó bắn vào xe anh L dễ dẫn đến chết người nhưng bị cáo vẫn thực hiện và để mặc hậu quả xảy ra. Hành vi của A là phạm tội Giết người với lỗi cố ý gián tiếp. Việc H bị thương là ngoài ý muốn của A.

Việc Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

2.2.3. Về bỏ lọt người phạm tội

Theo lời khai của những người liên quan, người làm chứng, bị hại đều khai nhận trên xe Lê Tuấn A có 2-3 người khác và Lê Tuấn A không phải một mình lái xe mà có người khác lái xe, Lê Tuấn A ngồi ghế phụ, bên cạnh. Mặc dù Công an huyện D đã thực nghiệm điều tra thể hiện Lê Tuấn A lái ô tô một mình nhưng cần làm rõ hơn liệu 01 người vừa lái xe, vừa hạ kính, vừa dùng tay phải đưa súng ra ngoài kính bên ghế lái phụ để bắn 02 phát liên tiếp như vậy được không? Và ngồi từ ghế lái để bắn thì vỏ đạn rơi ra tại hiện trường hay ở trong xe. Cơ quan điều tra cần tiến hành truy xét, khai thác Lê Tuấn A để làm rõ việc còn có những đồng phạm khác tham gia thực hiện tội phạm với A hay không từ đó mới giải quyết triệt để vụ án. Đồng thời đánh giá tính thành khẩn của A.

TL (tổng hợp)
Tìm kiếm