CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

CƠ QUAN CÔNG TỐ AUSTRALIA

13/04/2008
Cỡ chữ:   Tương phản

CƠ QUAN CÔNG TỐ AUSTRALIA

 

Ths.Nguyễn Đăng Thắng

      Viện khoa học kiểm sát - VKSNDTC

 

Australia là một quốc gia nằm trong hệ thống khối liên hiệp thịnh vượng chung trong đó có Vương quốc Anh và một số quốc gia khác (gồm các quốc gia độc lập và quốc gia phụ thuộc). Năm 1901, Australia giành quyền độc lập trên cơ sở là thuộc địa cũ của Vương quốc Anh. Cũng như một số Nhà nước tư sản trên thế giới, tổ chức bộ máy Nhà nước Australia được thành lập trên nguyên tắc học thuyết Tam quyền phân lập, hệ thống pháp luật đồng thời cũng mang nhiều dấu ấn đặc trưng của hệ thống pháp luật Vương quốc Anh. Theo Hiếp pháp năm 1901, tổ chức bộ máy nhà nước Australia gồm 3 hệ thống: Cơ quan lập pháp (Quốc hội liên bang), Cơ quan hành pháp (Chính phủ liên bang) và Cơ quan tư pháp (Tòa án liên bang). Hệ thống các cơ quan này hoạt động độc lập và chế ước lẫn nhau. Từ những xuất phát điểm nêu trên, hệ thống cơ quan công tố Australia mang đậm những nét đặc trưng của hệ thống Luật án lệ (Common law) và hệ thống tố tụng theo thủ tục tranh tục (Adversarial system), đồng thời cũng có nhiều đặc điểm riêng biệt. Trong phạm vi bài viết này, một số nét đặc trưng về hệ thống tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của cơ quan công tố được trình bày nhằm giúp độc giả thấy được vị trí và vai trò của cơ quan công tố Australia trong bộ máy nhà nước.

1. Một số điều kiện ra đời của cơ quan công tố

Nhà nước Australia được thành lập năm 1901, song mãi cho tới năm 1983 mới là năm đánh dấu mốc lịch sử ra đời quan trọng của cơ quan công tố Australia. Mặc dù hoạt động công tố nhà nước trước đó vẫn đang tồn tại và phát triển, việc cơ quan công tố Australia ra đời tương đối muộn xuất phát từ một số lý do cơ bản sau đây:

Trước năm 1983 hoạt động công tố của Nhà nước Australia được giao cho lực lượng cảnh sát thực hiện. Các cơ quan cảnh sát có thẩm quyền truy tố trong lực lượng cảnh sát tiến hành điều tra các hành vi phạm tội và tội phạm trên lãnh thổ Australia. Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ và có đủ điều kiện để truy tố, cơ quan cảnh sát đã tiến hành điều tra thực hiện các thủ tục truy tố, đưa người phạm tội ra truy tố trước Tòa án. Trong khi đó, trong hệ thống bộ máy nhà nước lực lượng cảnh sát thuộc bộ máy cơ quan hành pháp - cơ quan Chính phủ, hoạt động dưới sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Trong suốt một thời gian khá dài hệ thống truy tố của Nhà nước Australia (thời kỳ trước năm 1983) mang nặng tính hành pháp, phục vụ lợi ích của cơ quan hành pháp, lợi ích chính trị nhiều hơn là lợi ích của cộng đồng. Chính phủ, đại diện hệ thống cơ quan hành pháp đã tham gia sâu vào quá trình truy tố. Chính vì vậy, việc truy tố của cơ quan điều tra trên toàn lãnh thổ Australia không đảm bảo khách quan cũng như chất lượng của việc phân tích đánh giá các chứng cứ, nhân tố lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội không thể hiện trong hoạt động truy tố của cơ quan điều tra. Hơn thế, trước khi hoàn thành cáo trạng truy tố, điều tra viên đã tự thỏa mãn với tất cả các chứng cứ mà mình đã thu thập được và với các chứng cứ đó đã tự mình khẳng định sự có tội của người bị đưa ra xét xử. Tình trạng áp đạt ý chí chủ quan của điều tra viên trong quá trình truy tố như trên không những không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp chưa bị tước bỏ của bị truy tố mà còn gián tiếp ảnh hưởng tới quyền phán quyết của Tòa án trong quá trình xét xử cũng như ảnh hưởng tới quyền dân chủ và vấn đề nhân quyền.

Trong quá trình điều tra, truy tố các điều tra viên tiến hành điều tra vụ án thực hiện công việc truy tố không có bất kỳ một sự tư vấn, hỗ trợ pháp lý nào từ phía cơ quan có thẩm quyền cũng như từ phía cơ quan Tòa án bất kể đó là vụ án đơn giản hay phức tạp. Quá trình truy tố của cơ quan điều tra chỉ tuân theo một trình tự đơn điệu và bất biến. Thêm vào đó là hoạt động truy tố của điều tra viên tại phiên tòa rất nhanh chóng và mang nặng tính tiền lệ.

Từ đầu những thập niên 70 và thập niên 80, nhu cầu củng cố và nâng cao hoạt động công tố trong hệ thống tư pháp hình sự đã nảy sinh. Vấn đề tăng cường tính độc lập trong hoạt động điều tra và truy tố của cơ quan điều đã được giới quan chức trong Chính phủ cũng như công chúng ngày càng quan tâm sâu sắc hơn, đặc biệt là ở các khu vực tiểu bang. Năm 1973 tại khu vực Tasmania, tiểu bang đầu tiên của Australia đã thành lập một tổ chức thực hiện hoạt động công tố độc lập theo luật pháp của tiểu bang Tasmania. Tổ chức này gồm các nhân viên chuyên nghiệp chính thức làm việc trong tổ chức luật sư tham gia vào các hoạt động truy tố. Đến 1981 trong bản Báo cáo của ủy ban Hoàng gia Anh về thủ tục tố tụng hình sự đã đưa ra nguyên tắc cần phải thiết lập cho hệ thống cơ quan công tố hoạt động trên những chuẩn mực mới về tính công bằng, chân thật, trách nhiệm và có hiệu quả. Những chuẩn mực này ra đời đã tạo ra một ảnh hưởng lớn và quyết định tới sự chuyển biến trong hoạt động của hệ thống cơ quan công tố Australia.

Năm 1982, tại tiểu bang Victoria một trong hai trung tâm văn hóa chính trị và kinh tế lớn của Australia, nhu cầu xây dựng vị trí độc lập của cơ quan công tố đã được đưa lên thành luật. Tính độc lập của cơ quan công tố đã được hệ thống cơ quan lập pháp và cơ quan tòa án của tiểu bang đưa ra xem xét. Chuẩn mực xây dựng một cơ quan công độc lập với Chính phủ và Tổng chưởng lý đã được hình thành nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan công tố trong quá trình truy tố. Kết quả là, vào khoảng cuối năm 1982 một cơ quan công tố độc lập của tiểu bang Victoria được thành lập. Sự ra đời của cơ quan công tố tại tiểu bang Victoria là một động lực và điểm khởi đầu cho sự hình thành các cơ quan công tố ở các tiểu bang khác và cơ quan công tố liên bang sau này.

2. Vị trí của cơ quan công tố trong bộ máy nhà nước

Ngày 14 tháng 12 năm 1983 Luật công tố Australia được Nghị viện thông qua và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 08 tháng 3 năm 1984. Luật này ra đời đã đánh dấu nhiều thay đổi quan trọng trong quá trình thực hiện hoạt động công tố của nhà nước Australia. Trước hết, trên cơ sở luật này Cơ quan công tố Australia được chính thức thành lập và đi vào hoạt động với tư cách là một cơ quan công tố độc lập, hoạt động của cơ quan công tố độc lập và tách ra khỏi quá trình chính trị.

Về vị trí trong bộ máy nhà nước, Cơ quan công tố Australia trực thuộc Bộ Tư pháp (nằm trong hệ thống cơ quan hành pháp – Bộ Tư pháp do Tổng chưởng lý liên bang và một Bộ trưởng phụ trách các vấn đề về tư pháp đứng đầu). Mặc dù nằm trong Bộ Tư pháp, song, cơ quan công tố Australia luôn có vị trí và hoạt động một cách độc lập. Tính độc lập trong hoạt động của cơ quan công tố trong mối quan hệ với Bộ Tư pháp được thể hiện và qui định rõ tại Điều 8 của Luật tổ chức cơ quan công tố. Điều luật này qui định: Tổng chưởng lý liên bang có quyền ban hành các hướng dẫn và chỉ thị cho Công tố trưởng của cơ quan công tố về các vấn đề liên quan đến hoạt động và thực hiện chức năng của cơ quan công tố. Tuy nhiên, việc ban hành các hướng dẫn và chỉ thị của Tổng chưởng lý đối với Công tố trưởng của cơ quan công tố phải tuân thủ theo một qui trình thủ tục đặc biệt. Thủ tục này qui định: Trước khi ban hành, Tổng chưởng lý - người đứng đầu cơ quan tư pháp - phải tham khảo ý kiến của Công tố trưởng - người đứng đầu hệ thống cơ quan công tố - về các vấn đề đưa ra trong hướng dẫn và chỉ thị đó liên quan tới chức năng, thẩm quyền của Công tố trưởng và hoạt động của cơ quan công tố. Sau đó tất cả hướng dẫn và chỉ thị của Tổng chưởng lý đối với cơ quan công tố phải được công bố trên Công báo và đệ trình lên Thượng viện và Hạ viện trong thời hạn 15 ngày làm việc. Việc qui định về trình tự, thủ tục ban hành các hướng dẫn và chỉ thị của Tổng chưởng lý đối với các hoạt động của cơ quan công tố như trên một mặt đảm bảo tính độc lập của cơ quan công tố trong việc đưa ra các quyết định liên quan tới việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ, mặt khác còn đảm bảo việc thực hiện các chỉ thị và hướng dẫn đối với cơ quan công tố của Tổng chưởng lý liên bang chỉ được thực hiện sau khi các hướng dẫn và chỉ thị đó được hệ thống cơ quan lập pháp Australia chấp nhận thông qua. Điều này khẳng định rằng, việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của cơ quan công tố chỉ tuân theo qui định của Luật pháp và cơ quan lập pháp chứ không phụ thuộc vào bất cứ chỉ thị, hướng dẫn hay chỉ đạo nào của hệ thống cơ quan tư pháp (cơ quan cấp trên).

Thực tế nền tư pháp Australia hiện nay rất ít khi Tổng chưởng lý tham gia sâu vào hoạt động của cơ quan công tố thông qua việc ban hành các hướng dẫn chỉ thị cho Công tố trưởng về các vấn đề liên quan tới hoạt động, chức năng và nhiệm vụ của cơ quan công tố. Theo số liệu báo cáo hàng năm cho thấy tính từ khi cơ quan công tố Australia được chính thức thành lập từ năm 1984 cho tới cuối năm 2004 chưa có lần nào Tổng chưởng lý áp dụng qui định tại điều 8 Luật công tố để đưa ra các hướng dẫn và chỉ thị cho Công tố trưởng về việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của cơ quan công tố.

3. Vai trò của cơ quan công tố

Trong hệ thống tư pháp Australia, Cơ quan công tố không phải là tổ chức điều tra hay cơ quan điều tra chuyên trách, cũng như không tham gia vào bất cứ hoạt động điều tra nào. Cơ quan công tố chỉ có thể tiến hành hoạt động công tố khi và chỉ khi có các vụ việc được các cơ quan điều tra có thẩm quyền tiến hành điều tra như: Cục cảnh sát liên bang Australia, Ủy ban điều tra tội phạm quốc gia và một số cơ quan điều tra khác theo luật định. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ, Cơ quan công tố và cơ quan điều tra cũng có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác điều tra. Sự phối hợp này thể hiện ở chỗ, trong quá trình điều tra vụ án đặc biệt là đối với các vụ án phức tạp, các vụ án lớn và các vụ án có liên quan tới thủ tục thu giữ, kê biên và sung công tài sản, Cơ quan công tố thường xuyên phối hợp chặt chẽ với điều tra viên, tư vấn và hỗ trợ pháp lý cho các điều tra viên và cơ quan điều tra.

Một đặc điểm quan trọng trong vai trò của cơ quan công tố Australia  là: cơ quan công tố Australia không quyết định việc một người bị đưa ra truy tố có phạm tội hình sự cũng như thúc ép việc đưa ra bản án kết tội đối với người bị truy tố bằng bất cứ giá nào hay không. Vai trò của cơ quan công tố mà cụ thể là của Công tố viên là đưa ra được tất cả chứng cứ liên quan, thuyết phục đối với bồi thẩm đoàn hoặc hội đồng xét xử để từ đó bồi thẩm đoàn sau khi xem xét cân nhắc tất cả các chứng cứ được đưa ra từ phía Công tố viên và luật sư bào chữa, thỏa mãn và loại bỏ mọi yếu tố nghi ngờ và kết tội người bị đưa ra truy tố theo đúng như cáo trạng của cơ quan công tố.

4. Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan công tố        

Cơ cấu tổ chức cơ quan công tố Australia được qui định tại điều 5 của Luật tổ chức cơ quan công tố bao gồm: Cơ quan công tố liên bang và các Cơ quan công tố tiểu bang.

Cơ quan công tố liên bang: Trụ sở của Cơ quan công tố liên bang hiện ở Canberra thủ đô của Australia. Về cơ bản Cơ quan công tố liên bang có trách nhiệm thực hiện quyền quản lý hành chính đối với tất cả các cơ quan công tố trên lãnh thổ Australia, phát triển và xây dựng các chính sách, và các vấn đề ưu tiên quốc gia. Cơ quan công tố liên bang cũng có trách nhiệm đưa ra chính sách và tư vấn pháp lý cho Công tố trưởng đồng thời có trách nhiệm thực hiện hoạt động công tố đối với các hành vi vi phạm luật pháp liên bang, các hành vi phạm tội xảy ra trong tiểu bang và các vấn đề liên quan tới tài sản phạm tội.

Cơ cấu tổ chức của cơ quan công tố liên bang được chia thành 7 vụ, thực hiện các chức năng công tố và nhiệm vụ chuyên môn khác nhau. Các vụ trong Cơ quan công tố liên bang bao gồm:

(1).Vụ quản lý pháp lý và thực tiễn.

Vụ quản lý pháp lý và thực tiễn chỉ được thành lập ở cơ quan công tố cấp liên bang. Chức năng và nhiệm vụ của đơn vị này là chuẩn bị đệ trình các vấn đề liên quan tới việc bồi thường cho các nhân chứng trong vấn đề đưa và cung cấp chứng cứ; phát triển và thực hiện các nguyên tắc có hiệu quả nhất trong hoạt động của cơ quan công tố; tư vấn các vấn đề về pháp lý cho các bộ và cơ quan có thẩm quyền theo qui định của Luật pháp liên bang.

(2).Vụ thực hành quyền công tố đối với các vụ án thương mại.

Thực hiện việc truy tố đối với các hành vi phạm tội vi phạm Luật  Corporation Act 2001 (Tạm dịch: Luật qui định về các tập đoàn kinh doanh và các hoạt động, dịch vụ tài chính)và Australian Security and Investment Commission Act 20 (Tạm dịch: Luật về ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia)cũng như tất cả các hành vi phạm tội có dấu hiệu lừa đảo liên quan tới nhân tố tập đoàn kinh doanh và các hành vi phạm tội vi phạm luật Trade Practices Act 1974 (Tạm dịch: Luật kinh doanh thương mại). Do đặc thù và tính chất phức tạp của trong hoạt động truy tố đối với các loại tội phạm này, bên cạnh việc duy trì tính độc lập trong hoạt động thực hành quyền công tố Vụ thực hành quyền công tố đối với các vụ án thương mại hoạt động chặt chẽ với các cơ quan chuyên trách có liên quan như ủy ban chứng khoán và đầu tư Australia, ủy ban người tiêu dùng và cạnh tranh Australia.

(3).Vụ thực hành quyền công tố chung.

Vụ thực hành quyền công tố chung có nhiệm vụ tiến hành thực hiện việc truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội, ngoại trừ các hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền truy tố của Vụ thực hành quyền công tố đối với các vụ án thương mại. Giải quyết các vấn đề về thủ tục dẫn độ, các việc Tòa án yêu cầu trên cơ sở đề nghị của các quốc gia khác. Cùng với các nhiệm vụ nêu trên, chức năng chính của vụ thực hành quyền công tố chung là giải quyết các tranh chấp, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, tư vấn pháp lý và tiến hành các hoạt động hỗ trợ khác cho các cơ quan điều tra.

(4).Vụ các vấn đề về Tài sản phạm tội và Quốc tế

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, luật pháp Australia qui định: các tài sản liên quan tới người phạm tội (gồm tài sản của người phạm tội và tài sản do phạm tội có được) có thể hoặc sẽ bị kê biên, tịch thu để giảm thiểu những thiệt hại do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra cũng như để ngăn chặn những âm mưu, ý đồ đạt được một lợi ích nào đó của người phạm tội từ việc thực hiện hành vi phạm tội. Xuất phát từ mục đích nêu trên và xác định rõ việc thu hồi các tài sản liên quan tới tội phạm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án ở các cấp, hệ thống cơ quan công liên bang đã thành lập riêng Vụ các vấn đề về tài sản phạm tội và quốc tế. Các Công tố viên của Vụ này phối hợp các cơ quan thi hành pháp luật tiến hành các thủ tục pháp lý để thu hồi, kê biên và sung công các tài sản liên quan tới tội phạm.

(5).Vụ Chính sách.

Vụ chính sách chỉ thành lập tại cơ quan công tố liên bang, chịu trách nhiệm giúp cho Công tố trưởng phát triển các chính sách pháp lý liên quan tới các chức năng công tố của cơ quan công tố.

6.Vụ thực hành quyền công tố giải quyết các vụ án về thuế.

Tiến hành giải quyết và thực hành quyền công tố đối với tất cả các vụ án về thuế dịch vụ hàng hóa, và việc sửa đổi hệ thống thuế bao gồm cả hệ thống luật thuế mới.

(8).Vụ hành chính văn phòng

Vụ hành chính văn phòng được tổ chức hoạt động ở tất cả các cơ quan công tố với nhiệm vụ quan trọng là tổ chức thực hiện các hoạt động hành chính ở các cơ quan công tố đó, đảm bảo cho cơ quan công tố hoạt động có hiệu quả, xây dựng và triển khai các chính sách, hướng dẫn về các vấn đề nhằm tạo ra điều kiện hoạt động công tác tốt cho nhân viên. Bằng nhiều cách thức khác nhau, Vụ hành chính có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ các trang thiết bị, thực hiện chế độ kế toán, tuyển dụng cán bộ, quản lý tài chính, công nghệ thông tin, các dịch vụ văn phòng, thư viện và dịch vụ đăng ký tư pháp…

Các cơ quan công tố tiểu bang

Về mặt địa lý, lục địa Australia được chia thành 6 tiểu bang (gồm tiểu bang New South Wales, Victoria, Queesland, South Australia, Western Australia và Tasmania) và 2 khu vực chính (khu vực lãnh thổ phía bắc - Northern Territory và khu vực thủ đô - Australia Capital Terrritory). Trên cơ sở phân định địa giới hành chính nêu trên, hệ thống cơ quan công tố cấp tiểu bang được thành lập, mỗi tiểu bang đều có một cơ quan công tố. Đứng đầu mỗi cơ quan công tố tiểu bang là một Phó Trưởng công tố liên bang (có thể gọi là Công tố trưởng tiểu bang), người có trách nhiệm chỉ đạo các hoạt động công tố trong phạm vi khu vực tiểu bang đó. Đây cũng là một trong nhiều đặc điểm đặc trưng khác biệt của cơ quan công tố Australia so với hệ thống cơ quan công tố của Việt Nam. Về cơ cấu tổ chức của cơ quan công tố cấp tiểu bang, mỗi cơ quan công tố đều được thành lập 4 phòng: phòng thực hành quyền công tố chung, phòng thực hành quyền công tố các vụ án thương mại, phòng các vấn đề về tài sản phạm tội và phòng hành chính văn phòng. Các phòng này đều thực hiện chức năng và nhiệm vụ như các Vụ tương ứng trên cơ quan công tố cấp liên bang.

Tuy nhiên ở riêng 2 tiểu bang: Victoria (trung tâm là Melbourne) và tiểu bang New South Wales (trung tâm là Sydney) là những trung tâm kinh tế chính trị quan trọng của Ausstralia, cơ quan công tố của 2 tiểu bang này được phép thành lập thêm 2 phòng là: Phòng thực hành quyền công tố giải quyết các vụ án về Thuế và thêm một Phòng thực hành quyền công tố chung.

Bên cạnh những đặc điểm chung nói trên, cơ quan công tố cấp tiểu bang của Australia cũng có một số đặc trưng riêng về cơ cấu tổ chức, cụ thể như: Tại tiểu bang Queensland ngoài cơ quan công tố chính có trụ sở tại thành phố Brisbane còn thành lập thêm 2 cơ quan công tố khác tại thị trấn Townsville và Cairns nằm về phía bắc của bang này. Hoạt động của hai cơ quan công tố này đều thuộc quyền quản lý của Phó Trưởng công tố tiểu bang có trụ sở tại thành phố Brisbane.

Tại khu vực lục địa bắc (Northern Territory) và tiểu bang Tasmania, trước đây cơ quan công tố của hai tiểu bang này hoạt động trên danh nghĩa của cơ quan công tố liên bang dưới chỉ đạo điều hành của Luật sư chính phủ. Ngày nay, hai đơn vị này đã trở thành một bộ phận chính thức của cơ quan công tố liên bang. Tuy nhiên người đứng đầu cơ quan công tố tại hai khu vực hành chính này lại không phải là Phó trưởng công tố liên bang mà là hai Trợ lý Công tố trưởng cơ quan công tố liên bang, thay mặt Công tố trưởng công tố liên bang thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được ủy quyền.

5.Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố

Chức năng và nhiệm vụ của cơ quan công tố liên bang là tiến hành truy tố đối với các hành vi phạm tội vi phạm Luật pháp liên bang và kê biên, tịch thu các tài sản liên quan hành vi phạm tội đó. Cơ quan công tố liên bang cũng thực hiện việc truy tố đối với các hành vi vi phạm Luật pháp ở vùng Vịnh Jervis và các khu vực ngoài vùng lục địa ngoại trừ đảo Norfolk Island. Đối với các hành vi phạm tội vi phạm luật pháp của tiểu bang, chức năng và nhiệm vụ truy tố được trao cho các cơ quan công tố tiểu bang thực hiện cùng với việc tiến hành các thủ tục liên quan thu hồi tài sản phạm tội.

Đối với các loại tội phạm xảy ra trên đường phố cơ quan công tố liên bang không tiến hành hoạt động truy tố đối với loại tội phạm này. Các loại tội phạm này được qui định trong Luật của các tiểu bang và các vùng lục địa, vì vậy việc truy tố các tội đó thuộc thẩm quyền truy tố của các cơ quan công tố tiểu bang nơi tội phạm đó xảy ra.

Hầu hết các vụ án mà cơ quan công tố liên bang tiến hành hoạt động truy tố là các vụ án liên quan tới việc buôn bán ma túy, rửa tiền, các hành vi vi phạm luật Corporations Act, lừa đảo trong hệ thống liên bang (gian lận thuế, gian lận chứng khoán...), buôn người và khủng bố. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt và đối với những vụ án ít nghiêm trọng, đơn giản, thủ tục truy tố chủ yếu là thủ tục rút gọn Cơ quan công tố liên bang không thực hiện chức năng truy tố mặc dù vụ việc đó thuộc thẩm quyền và lĩnh vực truy tố của cơ quan công tố liên bang. Việc truy tố các vụ việc này do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở các thỏa thuận giữa Cơ quan công tố liên bang và các đơn vị đó. Các vụ việc này thường xảy ra trên lĩnh vực phạm tội phạm về thuế, bầu cử và các tội phạm vi phạm Luật Corperation Act nhưng hành vi phạm tội không nghiêm trọng, nhỏ lẻ. Ngoài ra đối với một số trường hợp vì lý do thuận tiện, thẩm quyền truy tố của cơ quan công tố liên bang được trao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan này sẽ thay mặt Công tố trưởng thực hiện quyền truy tố đối với các hành vi phạm tội đó. Việc truy tố được thực hiện đầy đủ theo các yêu cầu và chỉ dẫn, hướng dẫn trong chính sách truy tố của cơ quan công tố liên bang.

6. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và trợ lý công tố trưởng

Việc bổ nhiễm, miễn nhiệm chức danh Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng được qui định trong Luật tổ chức Cơ quan công tố năm 1983. Việc bổ nhiệm Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng được đại diện toàn quyền cao nhất của Nữ Hoàng trong Quốc hội liên bang bổ nhiệm. Theo Hiến pháp Australia và Điều 18, Điều 18A Luật công tố năm 1983, Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng có nhiệm kỳ hoạt động không quá 7 năm. Để bổ nhiệm vào vị trí Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và Trợ lý công tố trưởng, người được bổ nhiệm phải có đầy đủ năng lực, trình độ ở vị trí công tác và phải có ít nhất từ 5 năm công tác pháp lý trở lên. Trên thực tế người được bổ nhiệm các vị trí nêu trên thường là các công tố viên chuyên nghiệp có trình độ, nghiệp vụ rất cao đồng thời là các công tố viên đã được trao tước hiệu danh dự cao quí của Hoàng gia. Trong quá trình thực thi trách nhiệm của mình, khi hết nhiệm kỳ công tác Công tố trưởng, Phó Trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng có thể được tái bổ nhiệm nếu vẫn đáp ứng đủ yêu cầu và tư cách ở vị trí công tác và không bị giới hạn số nhiệm kỳ tái bổ nhiệm.

Việc miễm nhiệm Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng được qui định tại điều 23 Luật tổ chức công tố năm 1983. Theo qui định của Điều này, đại diện toàn quyền của Nữ Hoàng sẽ tiến hành thủ tục miễn nhiệm Công tố trưởng, Phó trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng khi có một trong các trường hợp sau đây:

+ Khi không có đủ tư cách, không đủ năng lực về thể chất và tinh thần.

+ Bị phá sản; lợi dụng pháp luật, vị trí công tác để dỡ bỏ tình trạng phá sản; dàn xếp với các chủ nợ hoặc lợi dụng chức vụ để nhận tiền thù lao từ các chủ nợ.

+ Rời bỏ vị trí công tác trong 14 ngày liên tục hoặc 28 ngày trong một năm không có lý do chính đáng.

+ Tham gia vào các hoạt động khác bên ngoài nhiệm sở hoặc ngoài phạm vi trách nhiệm với tư cách người thực thi pháp luật.

+Tham gia vào các hoạt động có trả lương bên ngoài nhiệm sở hoặc ngoài phạm vi trách nhiệm mà không có sự đồng ý của Tổng chưởng lý.

+ Không thực hiện, thực hiện không đúng các qui định về việc báo cáo tài chính, thu nhập cá nhân, bất kể nguồn thu nhập có được từ đâu theo qui định.

Trong thời gian được bổ nhiệm, Công tố trưởng, Phó Trưởng công tố và Trợ lý Công tố trưởng có thể thôi chức vụ đang giữ bằng việc đệ đơn từ chức lên đại diện toàn quyền cao nhất của Nữ Hoàng trong Quốc hội liên bang để xin từ chức.

Tóm lại, Cơ quan công tố Australia thuộc trực thuộc Bộ Tư pháp nằm trong nhánh các cơ quan hành pháp. Tuy trực thuộc Bộ Tư pháp, song cơ quan công tố Australia là cơ quan độc lập, thực hiện quyền công tố độc lập đối với các hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Australia. Cơ quan công tố Australia chỉ thực hiện chức năng công tố, không thực hiện hay tham gia vào quá trình điều tra vụ án hình sự cũng như giám sát việc thi hành bản án, hình phạt. Khi thực hiện chức năng nhiệm vụ, cơ quan công tố chỉ tuân theo Hiến pháp, hệ thống luật pháp liên bang và pháp luật tiểu bang cũng như chính sách truy tố của liên bang và tiểu bang.

 

Danh mục tài liệu tham khảo

- Director of Public Prosecutions Act 1983 (Amended on 28 May 2004)

- Commonwealth Director of Public Prosections – Annual Report 1999-2000, 2000-2001, 2001-2002, 2002-2003, 2003-2004.

- Prosecution Policy of the Commonwealth.

- The establishment of the office and role of the Commonwealth Director of Publish Prosecutions.

- The role of Director of Public Prosecution in the 20 Century, Bugg. Damian QC, 13/11/1999.

- Accountability, Independence and ethics in the prosecution practice, Bugg. Damian QC, 08/8/2004.

 

Tìm kiếm