CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Thông báo rút kinh nghiệm kiểm sát Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

05/11/2019
Cỡ chữ:   Tương phản
Ngày 25/10/2019, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Thông báo số 95/TB-VC2-HC rút kinh nghiệm vụ án “Khiếu kiện Quyết định hành chính về thu hồi nhà đất và Quyết định...

Ngày 25/10/2019, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Thông báo số 95/TB-VC2-HC rút kinh nghiệm vụ án “Khiếu kiện Quyết định hành chính về thu hồi nhà đất và Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính để thi hành quyết định hành chính về thu hồi nhà đất”.

- Người khởi kiện: Bà Võ Thị Bích Ng.

Địa chỉ: 08 Biệt Thự, phường L, thành phố N, tỉnh K.

- Người bị kiện: UBND tỉnh K.

Địa chỉ: Số 01 Trần Phú, thành phố N, tỉnh K.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Trường Th, anh Nguyễn Trường Ph, anh Nguyễn Trường Kh, chị Nguyễn Thị Thu T, chị Lại Thị Phương Th.

Cùng địa chỉ: 08 Biệt Thự, phường L, thành phố N, tỉnh K.

Nội dung vụ án

Ngày 15/8/2018, bà Ng có đơn khởi kiện, ngày 07/9/2018, bổ sung đơn khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh K:

- Hủy Quyết định số 809/QĐ-UBND ngày 03/4/2014 của UBND tỉnh K về thu hồi nhà đất lô số 04 tại số 08 Biệt Thự.

- Hủy Quyết định số 208/QĐ-UBND ngày 26/1/2015 của UBND tỉnh K về áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính để thi hành Quyết định số 809/QĐ-UBND về thu hồi nhà đất số 08 Biệt Thự.

- Buộc UBND tỉnh K thực hiện đúng nội dung các thông báo, kết luận, công văn trước đây về việc đồng ý bán nhà số 08 Biệt Thự cho bà Ng với giá 49.500.000đ/m2 theo Quyết định số 1830/QĐ-UBND ngày 30/10/2006 của UBND tỉnh K hoặc bồi thường thiệt hại cho bà Ng.

TAND tỉnh K thụ lý vụ án số 54/2018/TLST-HC ngày 21/9/2018, theo đơn khởi kiện của bà Võ Thị Bích Ng đối với người bị kiện là UBND tỉnh K.

Tại Giấy triệu tập số 43/2019/GTT-HC ngày 22/3/2019, TAND tỉnh K triệu tập các anh chị Nguyễn Trường Ph, Nguyễn Trường Kh, Nguyễn Thị Thu T, Lại Thị Phương Th tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Ngày 25/3/2019, vợ chồng anh Nguyễn Trường Ph, chị Lại Thị Phương Th và vợ chồng anh Nguyễn Trường Kh, chị Nguyễn Thị Thu T có đơn yêu cầu độc lập với yêu cầu khởi kiện của bà Ng.

Tại Biên bản về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản đối thoại cùng ngày 02/4/2019, TAND tỉnh K xác định người khởi kiện là bà Ng và người bị kiện là UBND tỉnh K; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Trường Th (chồng bà Ng), vợ chồng anh Nguyễn Trường Ph, chị Lại Thị Phương Th và vợ chồng anh Nguyễn Trường Kh, chị Nguyễn Thị Thu T.

Ngày 18/4/2019, Thẩm phán được phân công của TAND tỉnh K ký ban hành Thông báo trả lời đơn số 97/2019/TBTL và Thông báo trả lại đơn yêu cầu độc lập số 98/2019/TBTL của vợ chồng anh Nguyễn Trường Ph, chị Lại Thị Phương Th và vợ chồng anh Nguyễn Trường Kh, chị Nguyễn Thị Thu T với nội dung: Đơn yêu cầu độc lập của họ giống nội dung yêu cầu khởi kiện của bà Ng nên “các anh chị đã tham gia tố tụng với người khởi kiện. Vì vậy, theo quy định tại Điều 129 Luật Tố tụng hành chính, yêu cầu này của anh chị không phải là yêu cầu độc lập, không thuộc trường hợp phải nộp tạm ứng án phí theo quy định”.

Ngày 25/4/2019, vợ chồng anh Ph, chị Th có đơn khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu độc lập. Ngày 02/5/2019, Thẩm phán được Chánh án TAND tỉnh K phân công ký Thông báo số 01/2019/TB-TA thông báo cho vợ chồng anh Ph, chị Th là sẽ mở phiên họp xem xét, giải quyết đơn khiếu nại của anh Ph, chị Th về việc bị trả lại đơn khởi kiện vào ngày 07/5/2019.

Tại phiên họp giải quyết khiếu nại ngày 07/5/2019, Thẩm phán được phân công chủ trì phiên họp thông báo cho vợ chồng anh Nguyễn Trường Ph, chị Lại Thị Phương Th và vợ chồng anh Nguyễn Trường Kh, chị Nguyễn Thị Thu T là vụ án đã được đình chỉ tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 10/2019/QĐST-HC ngày 03/5/2019 nên không có cơ sở để giải quyết khiếu nại.

Quá trình giải quyết vụ án

1. Cấp sơ thẩm

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 10/2019/QĐST-HC ngày 03/5/2019 của TAND tỉnh K, xét thấy:

Theo các Biên bản tống đạt do người bị kiện giao nộp, bà Võ Thị Bích Ng (người khởi kiện) nhận được Quyết định số 809/QĐ-UBND ngày 03/4/2014 của UBND tỉnh K vào ngày 16/4/2014 và Quyết định số 208/QĐ-UBND ngày 26/1/2015 của UBND tỉnh K vào ngày 13/2/2015 nên theo quy định của điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính thì đến ngày bà Ng có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các Quyết định nêu trên (ngày 17/8/2018) thì thời hiệu khởi kiện đã hết.

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thụ lý số 54/2018/TLST-HC ngày 21/9/2018 về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính về thu hồi nhà đất và Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính để thi hành Quyết định hành chính về thu hồi nhà đất.”

Ngoài ra, quyết định còn tuyên về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án và quyền kháng cáo.

Ngày 13/5/2019, VKSND tỉnh K ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 105/QĐ-VKS-HC đối với Quyết định đình chỉ số 10/2019/QĐST-HC ngày 03/5/2019.

Ngày 15/5/2019, ngày 16/5/2019 và ngày 17/5/2019, TAND tỉnh K nhận được đơn kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích Ng kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 10/2019 nêu trên của TAND tỉnh K.

2. Cấp phúc thẩm

Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 152/2019/QĐ-HCPT ngày 11/9/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng:

Căn cứ điểm c khoản 5 Điều 243 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, chấp nhận kháng cáo, kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh K hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 10/2019/QĐST-HC ngày 03/5/2019 của TAND tỉnh K; chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh K để tiếp tục giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật.

Ngoài ra, Quyết định còn tuyên về án phí.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Điều 124 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định:

“1. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.

2. Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị.

3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại. Trường hợp người khởi kiện, Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp.

4. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người khởi kiện có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp;

b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án”.

Như vậy, theo quy định trên, về việc Thẩm phán được Chánh án TAND tỉnh K phân công xem xét, giải quyết khiếu nại về việc bị trả lời đơn khiếu nại của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Ph, chị Th, tuy chưa mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại thì trước đó, Thẩm phán được Chánh án TAND tỉnh K phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 10/2019/QĐST-HC ngày 03/5/2019 là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, khiến cho việc khiếu nại không thể giải quyết được, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của những người khiếu nại. Do đó, qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, VKSND tỉnh K đã kịp thời ban hành kháng nghị. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng sau khi nghiên cứu kháng nghị và hồ sơ vụ án thấy quan điểm kháng nghị của VKSND tỉnh K là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật nên đã đề nghị Hội đồng xét xử TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị theo hướng hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 10/2019/QĐST-HC ngày 16/5/2019 của TAND tỉnh K và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh K để tiếp tục giải quyết lại vụ án và đã được Hội đồng xét xử TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận.

Thanh Hằng

(Tổng hợp)

 

 

 

 

Tìm kiếm