Ngày 28/6/1988, Quốc Hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sựđầu tiên của nhà nước CHXHCNVN. Bộ luật có hiệu lực thi hành thi hành từ ngày 01/01/1989. Qua 3 lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1990, 1992, 2000), Bộ luật TTHS năm 1988 là một căn cứ pháp lý giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án tiến hành các hoạt động của mình một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, góp phần đảm bảo việc phát hịên chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội.
Đề xuất về việc sắp xếp những nguyên tắc cơ bản
của Luật tố tụng hình sự và phương hướng hoàn thiện
(Đinh Thị Thanh Tâm
Phòng Tổng hợp, Văn phòng VKSNDTC)
Ngày 28/6/1988, Quốc Hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nhà nước CHXHCNVN. Bộ luật có hiệu lực thi hành thi hành từ ngày 01/01/1989. Qua 3 lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1990, 1992, 2000), Bộ luật TTHS năm 1988 là một căn cứ pháp lý giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án tiến hành các hoạt động của mình một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, góp phần đảm bảo việc phát hịên chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2003 (có hiệu lực thi hành từ 01/7/2004) đã đáp ứng được các yêu cầu về đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị.
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội đã có những chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm ở nước ta cũng có những diễn biến phức tạp theo xu thế chung của thế giới. Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2009 có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2010 đã đáp ứng được một phần tinh thần Nghị quyết 49/NQ- TW ngày 02/6/2005 về “ Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Bộ luật hình sự (luật nội dung) muốn được thực hiện nghiêm túc trên thực tế thì Bộ luật tố tụng hình sự (luật hình thức) cũng phải được sửa đổi, bổ sung kịp thời và phù hợp.
Ngày12/5/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP về “Chương trình quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020”, trong đó có đề ra nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003. Cá nhân tôi xin đưa ra quan điểm về việc sắp xếp các nguyên tắc được qui định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và một số ý kiến đề xuất để Ban dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật TTHS nghiên cứu, xem xét.
Bộ luật TTHS hiện nay có qui định 30 nguyên tắc cơ bản (từ Điều 3 đến Điều 32). Đây là những tư tưởng chỉ đạo định hướng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS, đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được minh bạch, khách quan, bình đẳng.
Về trật tự sắp xếp của các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 theo tôi chưa thực sự khoa học, nên chăng cần sắp xếp các nguyên tắc theo một tiêu chí nhất định để việc nghiên cứu, áp dụng các nguyên tắc của Bộ luật TTHS dễ dàng hơn. Theo ý kiến cá nhân, tôi đề nghị sắp xếp các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự thành 4 nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất là các nguyên tắc có tính chất bảo đảm các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự.
Nhóm thứ hai là các nguyên tắc qui định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự.
Nhóm thứ ba là các nguyên tắc qui định về thủ tục tố tụng hình sự.
Nhóm thứ tư là các nguyên tắc qui định có tính chất chung và trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Theo hướng sắp xếp trên thì:
Nhóm các nguyên tắc có tính chất bảo đảm các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự, gồm các Điều sau:
1. Bảo đảm Pháp chế XHCN trong TTHS (Điều 3);
2. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4);
3. Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5)
4. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6);
5. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,tài sản của công dân (Điều 7);
6. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8);
7. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11);
8. Bảo đảm sự vô tư của của những người hành tố tụng ho?c người tham gia tố tụng (Điều 14);
9. Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 19);
10. Bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án (Điều 22);
11. Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29);
12. Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30);
13. Bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 31).
Nhóm các nguyên tắc qui định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự, gồm các Điều sau:
1. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 13);
2. Trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 12);
3. Trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 25).
Nhóm các nguyên tắc qui định về thủ tục tố tụng hình sự, gồm các Điều sau:
1. Xác định sự thật của vụ án (Điều 10);
2. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9);
3. Xét xử công khai (Điều 18);
4. Toà án xét xử tập thể (Điều 7);
5. Thực hiện chếđộ hai cấp xét xử (Điều 20);
6. Giám đốc thẩm việc xét xử (Điều 21);
7. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xửđộc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16);
8. Thực hiện chếđộ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 15);
9. Thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS (Điều 23).
Nhóm thứ tư là các nguyên tắc qui định có tính chất chung và trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa tội phạm, gồm các Điều sau:
1. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (Điều 24);
2. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28);
3. Phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội (Điều 27);
4. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 26);
5. Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 32).
Trong những nguyên tắc trên, nguyên tắc “Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân ” được qui định tại Điều 4 Bộ luật TTHS, các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Chương V, từ Điều 49 đến Điều 80. Trong đó Điều 52 qui định “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”; Điều 71 qui định “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể”…; Điều 73 qui định “ Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗở…Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật”…
Như vậy Điều 4 của Bộ luật TTHS qui định “ Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đã bao hàm các Điều 5, Điều 6, Điều 8 Bộ luật TTHS. Để tránh trùng lắp, theo tôi không nên tiếp tục qui định nguyên tắc này ở Điều 5, Điều 6, Điều 8 mà chỉ cần qui định Điều 4 là đủ.
Tại Điều 72 Hiến pháp 1992 qui định “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”…, và Điều 9 BLTTHS cũng qui định “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Nguyên tắc này là nguyên tắc Hiến định, vì vậy trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng cần qui định và qui định chi tiết trong các Điều có liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với công dân hoặc qui đinh trong các nguyên tắc, các qui định về bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Bên cạnh những đề xuất như trên, theo tôi cần bổ sung thêm nguyên tắc “Tranh tụng trong TTHS”. Tranh tụng là một nội dung quan trọng của cải cách tư pháp. Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 cũng đã xác định "…Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…”. Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”
Tranh tụng trong tố tụng hình sự là một phương pháp tố tụng, trong đó Toà án thay mặt nhà nước xác định sự thật của vụ án thông qua việc chứng minh giữa 2 bên đối lập (bên buộc tội và bên gỡ tội), chủ yếu là giữa Viện kiểm sát và người bào chữa.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xu hướng chung trên thế giới quyền và lợi ích hợp pháp của con người được chú trọng và đề cao. Tranh tụng giúp xác định sự thật của vụ án; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân; chống oan sai lọt người, lọt tội; bảo đảm quyền dân chủ, bắt buộc những người tranh tụng phải có mặt và tranh luận với nhau; góp phần giáo dục và tuyên truyền pháp luật, nâng cao trình độ pháp luật của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Hoạt động tranh tụng nhằm làm sáng tỏ có hành vi phạm tội xảy ra hay không? nếu có thì tội đó là tội gì, trong khung hình phạt nào và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng, những vấn đề liên quan đến bồi thường v.v…
Muốn cho hoạt động tranh tụng đạt hiệu quả, theo tôi cần phải hoàn thiện các qui định về quyền bào chữa, bảo đảm cho những quyền của người bào chữa được thực hiện trên thực tế. Bên cạnh đó phải nâng cao kỹ năng trình độ của Kiểm sát viên để tranh luận trực tiếp, công khai những vấn đề mà người bào chữa đưa ra, đồng thời qui định trách nhiệm của Kiểm sát viên nếu có căn cứ cho rằng Kiểm sát viên không thực hiện tốt việc tranh tụng. Có như vậy mới đúng nghĩa của hoạt động tranh tụng và đáp ứng được nội dung cải cách tư pháp.