(KS) - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BL TTHS) là một Bộ luật thể hiện bước phát triển mới về tư tưởng và kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta đã phát huy được vai trò trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm...
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự
Phạm Xuân Khoa
Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát Hà Nội
(KS) - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BL TTHS) là một Bộ luật thể hiện bước phát triển mới về tư tưởng và kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta đã phát huy được vai trò trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật một số quy định không còn phù hợp gây khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Mặt khác, do nhu cầu của một xã hội đang không ngừng phát triển và trong tiến trình cải cách tư pháp sâu rộng, hiện nay, việc cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam (Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự) đã và đang trở thành một vấn đề thời sự nóng bỏng mang tính cấp bách. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin có một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:
Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những nguyên tắc cơ bản, chi phối và điều chỉnh các giai đoạn tố tụng hình sự. Hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự không chỉ có ý nghĩa là kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng mà còn là tiền đề, căn cứ quan trọng để xây dụng BL TTHS. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, vì thế mà mọi nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng mang tư tưởng dân chủ và pháp chế. Vì vậy, chúng tôi xin kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
1.1 Sửa đổi, bổ sung nội dung nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự:
Điều 3 của BLTTHS quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”. Theo quan điểm của chúng tôi, quy định như vậy là chưa đầy đủ, chưa thể hiện được rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; bởi lẽ, điều luật này chỉ quy định mọi hoạt động tố tụng hình sự của các chủ thể nêu trên phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này mà không quy định cụ thể hậu quả pháp lý của việc không thực hiện các quy định đó. Chúng tôi đề xuất bổ sung thêm Điều 3 với nội dung sau:
“… Trong quá trình tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét xử), nếu các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vi phạm các quy định của Bộ luật này thì những chứng cứ thu thập được sẽ không được coi là hợp lệ.
Mọi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải hợp pháp, có căn cứ và phải nêu rõ lý do.
Mọi hành vi vi phạm các quy định của Bộ luật này đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
1.2 Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân bằng việc kết hợp nội dung của Điều 6 và Điều 8 của BL TTHS hiện hành.
1.3 Sửa đổi, bổ sung Điều 13 về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Điều 13 của BLTTHS quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.
Theo quan điểm của chúng tôi, quy định như vậy là chưa đầy đủ; bởi lẽ, ngoài Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thì vẫn còn một số cơ quan khác có trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật này. Khoản 1, Điều 104 BLTTHS quy định:“Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp quy định tại Điều 111 của Bộ luật này…”
Như vậy, Điều 13 đã bỏ quên trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự của một số cơ quan khác được quy định tại Điều 104, Điều 109 và Điều 111 của Bộ luật này. Bên cạnh đó có một số ý kiến cho rằng nên bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tòa án bởi Tòa án là cơ quan xét xử nên việc Tòa án ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sẽ không đảm bảo tính khách quan và không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án (chức năng xét xử). Việc giao cho Tòa án thẩm quyền này là lấn sân sang quyền công tố của Viện kiểm sát, bởi hoạt động khởi tố, điều tra cũng là một trong những nội dung của quyền công tố.
Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 13 như sau: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.”.
1.4 Bổ sung nguyên tắc “Việc xét xử do Tòa án tiến hành với nội dung: Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, khi xét xử Tòa án chỉ tuân theo pháp luật”.
Hiện nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp theo phương châm “Tòa án là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm” thì việc bổ sung nguyên tắc này là cần thiết.
1.5 Bổ sung nguyên tắc “Suy đoán vô tội”
Mặc dù BLTTHS hiện hành chưa ghi nhận nguyên tắc này nhưng trên thực tế tinh thần của nó đã được thể hiện rõ tại các Điều 9, Điều 10. Như vậy, có thể hiểu nguyên tắc suy đoán vô tội với những nội dung sau:
Thứ nhất, khi nào Tòa án chưa tuyên án và bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì bị can, bị cáo chưa bị coi là người phạm tội và Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải tạo điều kiện cho họ chứng minh gỡ tội cho mình.
Thứ hai, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc chứng minh tội phạm phải hợp pháp và có căn cứ, phải đảm bảo làm rõ cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội và loại bỏ, ngăn ngừa khả năng tiên liệu trước trong việc xử lý vụ án hình sự.
Thứ ba, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là minh vô tội, họ được quyền giữ im lặng.
1.6 Bổ sung nguyên tắc “Bị can, bị cáo có quyền giữ im lặng trong mọi giai đoạn tố tụng”.
Có thể quy định nội dung của nguyên tắc này như sau: “Trong mọi giai đoạn tố tụng, bị can, bị cáo có quyền giữ im lặng. Sự im lặng đó không được giải thích theo hướng bất lợi cho họ”. Đây là một trong những nguyên tắc có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc suy đoán vô tội.
1.6 Bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng” tại Tòa án
Nguyên tắc tranh tụng được quy định sẽ giúp quá trình tố tụng diễn ra dân chủ hơn, các quyền con người của cá nhân người phạm tội được bảo đảm; việc buộc tội, gỡ tội rõ ràng, minh bạch. Nguyên tắc này đòi hỏi chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử phải có sự phân định rạch ròi. Với quan niệm như vậy, có thể quy định nội dung nguyên tắc này theo hướng:
Một là, Tòa án là trung tâm của hoạt động xét xử (trọng tài). Tại phiên tòa Tòa án phải bảo đảm việc tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Hai là, phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả đánh giá chứng cứ và việc tranh luận công khai tại phiên tòa.
Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay đang là vấn đề cấp bách nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các nhà nghiên cứu. Các nhà làm luật và những nhà nghiên cứu pháp luật trong thời gian tới sẽ có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến đóng góp có giá trị nhằm góp phần vào việc hoàn thiện bộ luật này.