CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

QUY ĐỊNH PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH CỦA -VKSND - CÔNG AN - TÒA ÁN – THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH LÂM ĐỒNG

08/04/2013
Cỡ chữ:   Tương phản
Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân - Công an - Tòa án nhân dân và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng thống nhất xây dựng và thực hiện Quy định số 01/LN-VKS-CA-TA-THA về việc phối hợp liên ngànhtrong thực hiện Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội. Trang thông tin điện tử VKSND tối cao giới thiệu để các đơn vị trong Ngành tham khảo...
QUY ĐỊNH PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH CỦA -VKSND - CÔNG AN - TÒA ÁN – THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH LÂM ĐỒNG
 
Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân - Công an - Tòa án nhân dân và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng thống nhất xây dựng và thực hiện Quy định số 01/LN-VKS-CA-TA-THA về việc phối hợp liên ngànhtrong thực hiện Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội. Trang thông tin điện tử VKSND tối cao giới thiệu để các đơn vị trong Ngành tham khảo.
 
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN - CÔNG AN
TÒA ÁN NHÂN DÂN - CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỈNH LÂM ĐỒNG
Số: 01 /LN-VKS-CA-TA-THA
 
 
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 
Lâm Đồng, ngày 27 tháng 3 năm 2013
 
 
 
 
QUY ĐỊNH PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH
Của Viện kiểm sát nhân dân - Công an - Tòa án nhân dân
và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng trong việc thực hiện
Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc Hội
 
 
Căn cứ Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013;
Căn cứ Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 07/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án năm 2013;
Căn cứ Quy chế phối hợp liên ngành số 02 ngày 22/5/2012 của Liên ngành Công an - Kiểm sát - Toà án - Chi cục kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng trong công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
Để triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ tiêu công tác theo Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội (viết tắt là Nghị quyết 37/2012/QH13) trên cơ sở điều kiện, đặc thù của địa phương, liên ngành Viện kiểm sát nhân dân - Công an - Tòa án nhân dân và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng thống nhất quy định về công tác phối hợp cụ thể như sau:
I. NỘI DUNG CÔNG TÁC PHỐI HỢP LIÊN NGÀNH
1. Công tác phối hợp giữa Viện KSND với các Cơ quan điều tra thuộc Công an tỉnh Lâm Đồng trong việc điều tra, truy tố các vụ án hình sự
1.1. Chỉ tiêu theo Nghị quyết số 37/2012/QH13
Các Cơ quan điều tra phải xác minh đầy đủ, xử lý theo quy định của pháp luật các tố giác, tin báo về tội phạm; phát hiện, điều tra có hiệu quả các loại tội phạm, hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong công tác bắt, tạm giữ, tạm giam; bảo đảm chất lượng thu thập chứng cứ và lập hồ sơ các vụ án hình sự; chủ động phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra với thanh tra, kiểm toán, kiểm sát, giám định tài chính, kế toán; nâng cao tỷ lệ phát hiện và xử lý nghiêm các vụ án về kinh tế, chức vụ, tham nhũng. Nâng tỷ lệ xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đạt trên 90%; Giảm ít nhất 1% số người tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính vì hành vi không cấu thành tội phạm so với năm 2012".
1.2. Nội dung công tác phối hợp
a) Về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo đảm tỷ lệ xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đạt trên 90%:
Cơ quan điều tra 2 cấp thuộc Công an tỉnh Lâm Đồng có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Sau khi tiếp nhận, Cơ quan điều tra ra quyết định phân công Điều tra viên kiểm tra, xác minh, xử lý; đồng thời thông báo ngay cho VKSND cùng cấp để phân công Kiểm sát viên thụ lý kiểm sát chặt chẽ tố giác, tin báo về tội phạm đó. Nếu thuộc thẩm quyền giải quyết thì theo Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự, trong thời hạn 20 ngày (trong trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn không quá 2 tháng) Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự và gửi cho VKSND cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết; đồng thời, thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã báo tin biết theo quy định. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm liên quan đến cán bộ, Đảng viên thì thực hiện theo Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị và báo cáo cấp uỷ có thẩm quyền quản lý Đảng viên đó trước khi ra quyết định khởi tố. Cơ quan điều tra và VKSND đều phải mở sổ theo dõi việc tiếp nhận, xử lý và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Trường hợp VKSND hai cấp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thì phải xem xét và chuyển ngay đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết, đồng thời có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tin báo, tố giác về tội phạm theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm phải thường xuyên kiểm sát hoạt động của Điều tra viên trong việc xác minh nguồn tin, nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu và phối hợp đề ra các yêu cầu kiểm tra, xác minh sát, đúng và bảo đảm việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát để việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đúng thời hạn, có căn cứ, đúng pháp luật.
Hàng tuần, Điều tra viên được phân thụ lý tố giác, tin báo tội phạm thông báo cho Kiểm sát viên về chứng cứ, tài liệu mới thu thập được mà có ý nghĩa quan trọng đối với việc xử lý tố giác, tin báo về tội phạm; VKSND cử Kiểm sát viên đến Cơ quan điều tra cùng cấp rà soát, đối chiếu, kiểm tra số liệu thụ lý tố giác, tin báo về tội phạm mới phát sinh, số đã giải quyết, số chưa giải quyết, số quá hạn; cùng phối hợp phân loại, xử lý tố giác, tin báo tội phạm; giải quyết những khó khăn, vướng mắc và có biện pháp, hướng xử lý, nhất là đối với các vụ việc phức tạp. Đối với những tố giác, tin báo quá hạn, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải tổ chức họp thống nhất biện pháp giải quyết và ấn định thời gian giải quyết dứt điểm.
Hàng tháng, Lãnh đạo Cơ quan điều tra và VKSND cùng cấp họp xem xét kết quả thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, bàn biện pháp chỉ đạo giải quyết nhất là tố giác, tin báo phức tạp, kéo dài, quá hạn do Điều tra viên, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất; khi cần thiết, lãnh đạo các ngành tổ chức họp đột xuất để giải quyết những vụ việc cụ thể, bảo đảm tỷ lệ xử lý tố giác, tin báo về tội phạm đạt trên 90%.
VKSND theo dõi, quản lý chặt chẽ tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền; thường xuyên đôn đốc, thông báo, kiến nghị về công tác này. Đối với những thông tin không phải tố giác, tin báo về tội phạm hoặc không thuộc thẩm quyền giải quyết cần phối hợp với Cơ quan điều tra phân loại, xử lý theo đúng quy định.
Định kỳ hàng tháng, quý, sáu tháng, 12 tháng, Cơ quan điều tra phối hợp báo cáo tình hình chấp hành pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự (việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn; điều tra vụ án hình sự) để VKSND cùng cấp báo cáo, đánh giá đầy đủ, kịp thời về tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm nói chung trong đó có các vi phạm, tội phạm xâm phạm các hoạt động tư pháp; thống kê, phân tích, đánh giá về tội phạm và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm thuộc trách nhiệm của VKSND.
b) Phối hợp để giảm ít nhất 1% số người tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính vì hành vi không cấu thành tội phạm so với năm 2012:
Các trường hợp tạm giữ hình sự bảo đảm thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; đối với các trường hợp phức tạp cần có sự trao đổi, phối hợp thống nhất giữa Điều tra viên, Kiểm sát viên trước khi thực hiện việc tạm giữ hình sự nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc tạm giữ sau đó chuyển xử lý hành chính vì hành vi không cấu thành tội phạm, phấn đấu giảm ít nhất 1% số người tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính vì hành vi không cấu thành tội phạm so với năm 2012.
Trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên không thống nhất về việc áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp để tạm giữ hình sự thì báo cáo Lãnh đạo Phòng, Lãnh đạo Cơ quan điều tra và VKSND cùng cấp để họp, đánh giá và thống nhất đường lối giải quyết.
c) Công tác phối hợp nhằm điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt trên 70%, các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90% trên tổng số án khởi tố:
 Cơ quan điều tra hai cấp phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ thuộc Công an tỉnh, huyện, thành phố thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp các loại tội phạm hình sự, vận động nhân dân tố giác tội phạm và vận động người phạm tội ra đầu thú; phối hợp với VKSND trong công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và các hoạt động điều tra ban đầu để việc ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đúng quy định pháp luật, bảo đảm tỷ lệ điều tra, khám phá án đạt trên 70%, các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90% trên tổng số án khởi tố, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục triệt để việc khởi tố sau đó phải đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm.
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm, Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự kịp thời. Phối hợp chặt chẽ với Hội đồng giám định pháp y và các cơ quan giám định khác để có căn cứ khởi tố vụ án trong thời hạn quy định. Đối với những vụ, việc phức tạp, tính chất đặc biệt nghiêm trọng, dư luận xã hội quan tâm, trước khi khởi tố Cơ quan điều tra gửi tài liệu, hồ sơ cho VKSND, trường hợp cần thiết cần trao đổi giữa Cơ quan điều tra và VKSND để đảm bảo việc khởi tố có căn cứ, đúng pháp luật, kiên quyết không khởi tố nếu chưa đủ căn cứ pháp luật. Nếu không thống nhất quan điểm thì cùng báo cáo lên cấp trên của hai cơ quan để xem xét, quyết định.
- VKSND phân công Kiểm sát viên thụ lý, kiểm sát 100% số vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố và đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản sát, đúng, có căn cứ, có tính khả thi, tạo điều kiện thuận lợi đối với Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hình sự để chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; phát hiện kịp thời và yêu cầu xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu của VKS; nếu có vấn đề chưa thông nhất báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo liên ngành để xem xét, quyết định. Định kỳ 6 tháng, 12 tháng Cơ quan điều tra và VKS rà soát, làm rõ trách nhiệm, rút kinh nghiệm về các vụ án hình sự phải đình chỉ do bị can không phạm tội, vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung để rút kinh nghiệm chung.
d) Công tác phối hợp nhằm bảo đảm Viện kiểm sát ra quyết định truy tố đúng thời hạn trên 90% số vụ án hình sự đã có kết luận điều tra đề nghị truy tố, truy tố bị can đúng tội đạt trên 95%:
Cơ quan điều tra và VKSND cùng cấp phối hợp để Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố, kiểm sát điều tra ngay từ đầu và toàn bộ quá trình điều tra vụ án. Điều tra viên cung cấp các tài liệu phản ánh về tiến độ, kết quả điều tra cho Kiểm sát viên để kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Cơ quan điều tra thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các yêu cầu của Viện kiểm sát, bảo đảm ngay sau khi kết thúc điều tra vụ án, VKSND ra quyết định truy tố đúng thời hạn đạt trên 90% và đúng tội đạt trên 95%.
Trước khi kết thúc điều tra trong thời hạn 15 ngày, Cơ quan điều tra có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án hình sự cho VKSND nghiên cứu. Điều tra viên, Kiểm sát viên phối hợp hỏi cung bị can, xem xét chứng cứ, nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, tổng hợp đánh giá về tính chất vụ án nhất là các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, vai trò của từng bị can trong vụ án; đồng thời có biên bản thống nhất theo hướng: Kết thúc điều tra vụ án hoặc tiếp tục điều tra, thu thập chứng cứ đối với vụ án và báo cáo lãnh đạo đơn vị để thống nhất phối hợp thực hiện.
Sau khi vụ án kết thúc điều tra, hồ sơ chuyển đến VKSND, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ hồ sơ nếu thấy cần bổ sung, thu thập tài liệu chứng cứ thì phối hợp với Điều tra viên thu thập bổ sung kịp thời mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu xét thấy phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên phải đề xuất lãnh đạo ra quyết định và phối hợp với Điều tra viên khẩn trương thực hiện việc điều tra bổ sung theo đúng quy định của Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT ngày 28/9/2010 của Viện KSND tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trước khi kết thúc điều tra hoặc điều tra bổ sung nếu Điều tra viên và Kiểm sát viên có quan điểm khác nhau về chứng cứ, tội danh... thì báo cáo lãnh đạo cấp Phòng thuộc Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện của từng đơn vị đang thụ lý hồ sơ để tổ chức họp; nếu chưa thống nhất thì Cơ quan điều tra, VKSND báo cáo lãnh đạo liên ngành quyết định trước khi làm bản kết luận điều tra, quyết định điều tra bổ sung hoặc đình chỉ điều tra theo thẩm quyền.
2. Công tác phối hợp giữa Viện KSND với Công an và Tòa án nhân dân trong công tác tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
2.1. Chỉ tiêu theo Nghị quyết số 37/2012/QH13
"Giảm số bị án phạt tù trốn ngoài xã hội và người bị tạm giữ, tạm giam chết thuộc trách nhiệm quản lý của nhà tạm giữ, trại tạm giam; cơ bản khắc phục tình trạng tạm giữ, tạm giam chung người trong cùng vụ án, người chưa thành niên với người thành niên; phạm nhân chết do đánh nhau, tự sát, vi phạm pháp luật, tiếp tục phạm tội trong trại giam. Bảo đảm 100% cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện có cán bộ chuyên trách theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Khẩn trương tổ chức thi hành án tử hình theo đúng quy định của pháp luật".
2.2. Nội dung công tác phối hợp
Cơ quan thi hành án hình sự thuộc Công an hai cấp tiến hành rà soát, lập danh sách toàn bộ số bị án phạt tù đang trốn ngoài xã hội để ra lệnh truy nã và lập kế hoạch phối hợp tổ chức bắt thi hành án hình sự. VKSND hai cấp theo dõi, đôn đốc việc bắt thi hành án của Cơ quan thi hành án hình sự, định kỳ giao ban liên ngành hàng tháng báo cáo kết quả công tác thi hành án hình sự, trong đó nêu rõ số đã bắt thi hành án phạt tù trốn ngoài xã hội, số chưa bắt được, lý do chưa bắt được; rà soát, phân loại, đình chỉ số trốn thi hành án phạt tù đang bị truy nã để lãnh đạo liên ngành có biện pháp chỉ đạo.
Cơ quan thi hành án hình sự và VKSND thường xuyên phối hợp với Tòa án nhân dân để đảm bảo Tòa án nhân dân gửi đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định cho Cơ quan thi hành án; nắm chắc số bản án đã có hiệu lực pháp luật để tổ chức đưa người bị kết án phạt tù đi chấp hành án; việc hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thực hiện đúng pháp luật. Đối với vụ án phức tạp hoặc có quyết định đưa đi xét xử lưu động, Tòa án nhân dân phải trao đổi và thông báo trước 3 ngày cho Cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp để khảo sát thực địa, phân công, bố trí lực lượng bảo vệ phiên tòa bảo đảm an toàn trong quá trình xét xử vụ án.
Công an tỉnh tiếp tục chỉ đạo các Nhà tạm giữ và Trại tạm giam phân loại người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và thi hành án phạt tù, không giam chung: Người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị án, người chưa thành niên với người thành niên, người cùng vụ án trong một buồng giam. Khi tiếp nhận người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù phải tiến hành kiểm tra sức khỏe theo quy định; nếu phát hiện người bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù bị bệnh phải đưa đi khám, điều trị kịp thời. Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm giam, cán bộ quản giáo tăng cường tuần tra, kiểm soát, kiểm danh, kiểm diện để phát hiện người bị tạm giữ vi phạm nội quy Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, tình hình sức khỏe và nắm bắt tư tưởng, tâm lý của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và thi hành án phạt tù phòng tránh việc mang vật cấm vào nơi giam giữ để tự sát, trốn trại, đánh nhau gây rối, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật và phạm tội mới. Lưu giữ phạm nhân tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam để chấp hành hình phạt tù phải đảm bảo đủ điều kiện theo quy định tại khoản 2, Điều 171 Luật thi hành án hình sự.
Hàng ngày, Kiểm sát viên được phân công phải kiểm sát việc bắt, tạm giữ và xử lý tại các Nhà tạm giữ. Khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật xảy ra ở Nhà tạm giữ, Trại tạm giam thì tiến hành kiểm sát bất thường, sau khi kiểm sát có kết luận bằng văn bản. Tập trung kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù. Trong quá trình kiểm sát, phát hiện người bị giam, giữ oan, sai hoặc trái pháp luật thì đề nghị ra quyết định trả tự do và làm rõ trách nhiệm của cá nhân, đơn vị liên quan. Phối hợp với Nhà tạm giữ, Trại tạm giam thường xuyên rà soát, nắm chắc số người sắp hết hạn tạm giữ, tạm giam; hồ sơ bắt tạm giữ, tạm giam không đầy đủ để thông báo hoặc kiến nghị đối với Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khắc phục. Đối với vi phạm nghiêm trọng cần ban hành kháng nghị chính xác, kịp thời; thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc thực hiện, trả lời kiến nghị, kháng nghị của VKSND.
Hàng ngày, Giám thị Trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ có trách nhiệm thông báo cho VKS cùng cấp về tình hình bắt, tạm giữ, tạm giam; Cơ quan thi hành án hình sự quản lý chặt chẽ và định kỳ thông báo cho VKSND cùng cấp về bị án phải chấp hành các hình phạt khác: án treo, cải tạo không giam giữ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm đi khỏi nơi cư trú, hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, trốn thi hành án, chưa áp giải thi hành án. Viện KSND cử KSV thụ lý theo dõi, phối hợp với cơ quan thi hành án để có biện pháp tổ chức thi hành án theo đúng quy định.
Công an tỉnh tiếp tục hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án hình sự hai cấp để phối hợp với VKSND cùng cấp thực hiện tốt công tác thi hành án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự. Khắc phục việc thiếu cán bộ làm công tác thi hành án hình sự ở cấp huyện, thành phố; năm 2013, đảm bảo 100% Cơ quan thi hành án hình sự có cán bộ chuyên trách. Tiếp tục báo cáo Bộ Công an tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng Nhà tạm giữ, Trại tạm giam đảm bảo tiêu chuẩn quy định; khẩn trương hoàn thiện, triển khai thi hành án tử hình theo đúng quy định của pháp luật.
3. Công tác phối hợp giữa Viện KSND với Tòa án nhân dân trong việc xét xử và thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính...
3.1. Chỉ tiêu theo NQ 37/2012/QH13
Tòa án nhân dân tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật, nhất là đối với các vụ án dân sự, hành chính.
Nâng tỷ lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự và tăng số vụ án hình sự xét xử lưu động; không để xảy ra trường hợp kết án oan người không phạm tội, giảm ít nhất 1% tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan so với năm 2012.
Chấm dứt việc trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật; khắc phục tình trạng bản án, quyết định tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án. Việc cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật; khắc phục triệt để tình trạng án quá hạn luật định, nhất là các vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tạo điều kiện để luật sư tham gia tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.
Tỷ lệ các kháng nghị được Tòa án chấp nhận đạt trên 70%.
Đẩy nhanh tiến độ và nâng tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đạt trên 60%; cơ bản khắc phục tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng nghị nhưng sau đó lại phải kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Bảo đảm ra quyết định thi hành án hình sự đúng thời hạn luật định đối với người bị kết án đạt tỷ lệ 100%. Việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải đúng pháp luật; chấm dứt tình trạng chậm gửi bản án, quyết định của Tòa án cho đương sự và các cơ quan hữu quan.
3.2. Nội dung công tác phối hợp
a) Về công tác xét xử và thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự:
VKSND phối hợp với Toà án nhân dân hai cấp kịp thời đưa các vụ án hình sự ra xét xử đúng hạn luật định, tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư tham gia phiên tòa. Bảo đảm việc tranh tụng dân chủ, công khai; tích cực xét xử lưu động, phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Kiểm sát viên thụ lý vụ án phải tiến hành kiểm sát chặt chẽ đảm bảo việc xét xử đúng thời hạn, đúng tội danh, đúng khung hình phạt. Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ nếu phát hiện còn thiếu chứng cứ, kịp thời trao đổi với Kiểm sát viên bổ sung; trường hợp Kiểm sát viên không bổ sung được chứng cứ, tài liệu thì Thẩm phán đề xuất lãnh đạo Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Nếu có quan điểm khác nhau về tội danh, đánh giá chứng cứ thì báo cáo Lãnh đạo hai Ngành giải quyết, nếu không thống nhất đề xuất họp liên ngành xem xét, quyết định.
Kiểm sát viên thụ lý vụ án nghiên cứu kỹ các nội dung yêu cầu điều tra bổ sung để báo cáo Lãnh đạo Viện, nếu thấy có căn cứ thì VKSND tiến hành điều tra bổ sung hoặc trả hồ sơ yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung; xét thấy việc trả hồ sơ của Tòa án không có căn cứ, Kiểm sát viên đề xuất lãnh đạo Viện có văn bản giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định.
Tòa án gửi bản án, quyết định cho đương sự và VKSND đúng thời hạn để thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định. Trường hợp, VKS kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm phải viện dẫn rõ căn cứ pháp luật, tội danh, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và chứng cứ, tài liệu khẳng định việc Tòa án xét xử chưa đúng pháp luật để bảo đảm việc kháng nghị có căn cứ, thuyết phục và được chấp nhận. Các vụ án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, VKSND phối hợp với Tòa án theo dõi, trao đổi đảm bảo hồ sơ vụ án chuyển lên cấp phúc thẩm đầy đủ, kịp thời. Khi Tòa án nhận hồ sơ và thụ lý vụ án cần chuyển hồ sơ cho VKSND theo quy định.
Đối với những vụ án phức tạp, dư luận xã hội quan tâm hoặc có quan điểm cho rằng bị cáo không phạm tội, chưa đủ chứng cứ buộc tội, bỏ lọt tội phạm, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; án sơ thẩm xử không đúng tội danh, khung hình phạt; hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, cho hưởng án treo không đúng pháp luật, cần phối hợp trao đổi và có báo cáo đề xuất xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo VKSND, TAND cùng cấp hoặc cấp trên.
VKSND và TAND phối hợp lựa chọn một số vụ án phức tạp, có các quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ, tội danh, hoặc vụ án có Luật sư tham gia… để tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm đảm bảo việc tranh tụng dân chủ, đúng pháp luật. Sau phiên tòa, lãnh đạo hai Ngành tổ chức họp rút kinh nghiệm nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
Những vụ án phức tạp, vướng mắc cần có sự chỉ đạo thì Thẩm phán hoặc KSV kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị mình để thống nhất về nội dung những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo hoặc mời lãnh đạo liên ngành tổ chức họp và cho ý kiến, bảo đảm vụ án được giải quyết đúng pháp luật. Các vụ án do cơ quan tố tụng cấp dưới thỉnh thị nếu cần thiết thì hai Ngành trao đổi quan điểm xử lý, nếu chưa thống nhất đề xuất họp liên Ngành các Cơ quan tiến hành tố tụng để xem xét, quyết định.
Thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải xác định rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để tổng hợp kiến nghị và đề xuất các biện pháp phòng ngừa.
b) Về công tác thụ lý, giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và kiểm sát thụ lý giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động:
Tòa án nhân dân hai cấp nhận đơn khởi kiện của đương sự phải phân công Thẩm phán theo dõi, thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hành chính. Nếu vụ, việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì phân công Thẩm phán thụ lý và gửi thông báo thụ lý cho VKS trong thời hạn quy định. Nếu Tòa án không thụ lý vụ, việc; trả đơn khởi kiện hoặc không trả lại đơn khởi kiện mà đương sự có khiếu nại thì phải giải quyết trong thời hạn quy định và thông báo bằng văn bản nêu rõ căn cứ pháp luật cho VKS. Trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện nhưng VKS chưa thống nhất quan điểm giải quyết thì Thẩm phán và Kiểm sát viên cần trao đổi, đề xuất lãnh đạo hai ngành họp để xem xét, quyết định.
VKSND khi nhận được thông báo thụ lý vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động của Tòa án phải phân công KSV kiểm sát việc thụ lý, tham gia phiên họp, phiên tòa đồng thời thông báo bằng văn bản cho Tòa án. VKS theo dõi chặt chẽ, thường xuyên phối hợp để Tòa án giải quyết vụ, việc trong thời hạn pháp luật quy định. Trường hợp phát hiện Tòa án thụ lý không đúng quy định của pháp luật, giải quyết vụ, việc quá hạn, VKS ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
Khi phát hiện Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa đúng pháp luật thì Kiểm sát viên trao đổi trực tiếp với Thẩm phán đã ban hành quyết định đó, nếu không thống nhất VKSND ban hành kiến nghị, Tòa án xem xét thực hiện kiến nghị và trả lời bằng văn bản cho VKS.
Đối với trường hợp lập biên bản hòa giải thành, biên bản ghi nhận tự nguyện xin ly hôn, Tòa án gửi cho đương sự, đồng thời gửi VKSND cùng cấp, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát trao đổi với Tòa án để có biện pháp khắc phục kịp thời, hạn chế việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận trái pháp luật, giảm tỷ lệ số vụ án phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Những vụ án đưa ra xét xử, Tòa án chuyển hồ sơ cho VKS trong thời hạn để nghiên cứu. Hồ sơ phải có quyết định đưa vụ án ra xét xử, ghi tên Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa. Khi nhận được hồ sơ đưa vụ án ra xét xử, Kiểm sát viên nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về chứng cứ, thủ tục tố tụng sau đó chuyển lại hồ sơ cho Tòa án và phối hợp cùng Tòa án xét xử trong thời hạn pháp luật quy định. Trước khi xét xử, Kiểm sát viên phát hiện hồ sơ vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động về chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ để có cơ sở giải quyết chính xácthì trao đổi với Thẩm phán thụ lý, giải quyết vụ án, trường hợp cần thiết ban hành văn bản yêu cầu điều tra bổ sung chứng cứ. Tòa án thực hiện đầy đủ yêu cầu của VKS, nếu không thống nhất thì có văn bản trả lời và lưu hồ sơ vụ án.
Tài liệu, chứng cứ thu thập, điều tra bổ sung được chuyển ngay cho VKSND trước khi vụ án đưa ra xét xử để Kiểm sát viên có quan điểm phát biểu tại phiên tòa. Khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án tiến hành xét xử vụ án trong thời hạn luật định. Trường hợp hoãn phiên tòa, Thẩm phán thông báo cho KSV biết và gửi quyết định hoãn phiên tòa cho VKSND. Kiểm sát viên được cử tham gia phiên tòa phải có mặt tại Tòa án theo đúng thời gian ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp có sự thay đổi Kiểm sát viên, thì VKSND phải thông báo cho Tòa án kịp thời.
Các bản án, quyết định dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động của Tòa án gửi đến VKSND cùng cấp đầy đủ, đúng thời hạn; đồng thời Tòa án nhân dân huyện, thành phố gửi cho VKSND tỉnh Lâm Đồng bản án, quyết định đó để kiểm sát, thực hiện thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nếu phát hiện vụ, việc phải nghiên cứu kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì VKSND có văn bản yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để nghiên cứu. Ngay sau khi nhận được văn bản yêu cầu của VKSND, Tòa án kịp thời chuyển hồ sơ để đảm bảo thời gian kháng nghị và thời hạn giải quyết đơn.
Tòa án, VKS hai cấp phối hợp chặt chẽ để nâng cao chất lượng thụ lý, giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động; VKS tăng cường phối hợp, giám sát việc tuân theo pháp luật trong thụ lý, giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động của Tòa án.
c) Tỷ lệ các kháng nghị của Viện kiểm sát được Tòa án chấp nhận đạt trên 70%:
Trường hợp án sơ thẩm có vi phạm cần kiến nghị khắc phục thì tùy trường hợp cụ thể, VKSND có thể trao đổi trực tiếp hoặc kiến nghị bằng văn bản với Tòa án cùng cấp. Nếu vi phạm không nghiêm trọng mà VKSND đã trao đổi trực tiếp nhưng TAND chưa khắc phục, Viện kiểm sát cần xem xét để ban hành kiến nghị. Tòa án phải thông báo kết quả thực hiện kiến nghị bằng văn bản cho VKS.
Trường hợp VKS kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm phải viện dẫn rõ căn cứ pháp luật, chứng cứ, tài liệu khẳng định rõ ràng việc Tòa án xét xử chưa đúng pháp luật để bảo đảm việc kháng nghị có căn cứ và đúng pháp luật, tỷ lệ các kháng nghị Tòa chấp nhận đạt trên 70%. Đối với kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong trường hợp cần thiết VKS hoặc Tòa án có thể trao đổi trước khi ban hành kháng nghị.
4. Công tác phối hợp giữa Viện KSND với Tòa án nhân dân và Cục Thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự
4.1. Chỉ tiêu theo NQ 37/2012/QH 13
 "Cơ quan thi hành án hai cấp tạo bước đột phá để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án; bảo đảm chính xác, đúng pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành.
Năm 2013, tỷ lệ thi hành án dân sự xong đạt trên 88% về việc, trên 77% về tiền trên tổng số án có điều kiện thi hành.
Ra quyết định thi hành án đúng thời hạn đối với 100% các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực theo đúng quy định của pháp luật; cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án".
4.2. Nội dung công tác phối hợp
Cơ quan thi hành án dân sự hai cấp cần rà soát phân loại, xác minh chính xác, đúng pháp luật số việc có điều kiện thi hành, không có điều kiện thi hành án, kiên quyết không để xảy ra việc án có điều kiện chuyển sang án chưa có điều kiện thi hành. Tập trung thực hiện đạt chỉ tiêu về số việc, số tiền; thi hành dứt điểm các vụ, việc có điều kiện thi hành, nhất là vụ, việc có giá trị tài sản lớn; chú trọng thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự, nhất là những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, không để xảy ra điểm nóng. Kịp thời tổ chức định giá, kê biên, bán đấu giá tài sản đối với việc có điều kiện nhưng không tự giác thi hành án. Đảm bảo 100% bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đối với loại việc chủ động đều được thi hành án.
Trong quá trình thi hành án Cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm gửi các quyết định về thi hành án cho VKSND cùng cấp; đối với các quyết định ủy thác, đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn thi hành án, trả đơn yêu cầu thi hành án Cơ quan thi hành án gửi kèm các căn cứ để ban hành các quyết định trên cho Viện VKSND theo quy định. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình VKS hai cấp tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành. Đảm bảo mọi vi phạm đều được phát hiện kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục kịp thời. Những vi phạm nghiêm trọng phải được xử lý theo đúng quy định pháp luật.
Các bản án, quyết định đã tuyên phải chính xác, rõ ràng, cụ thể tạo thuận lợi cho quá trình thi hành án và chuyển giao bản án, quyết định cho Cơ quan Thi hành án dân sự đúng thời hạn quy định. Trường hợp vật chứng, tài sản chưa được chuyển giao cho Cơ quan Thi hành án theo thủ tục tố tụng hình sự thì Tòa án yêu cầu người đang quản lý vật chứng, tài sản chuyển giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự kèm với bản án, quyết định tại kho Cơ quan Thi hành án dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ hoặc có sai sót gây khó khăn cho việc thi hành án, khi nhận được công văn yêu cầu, Tòa án giải thích hoặc đính chính những sai sót trong bản án, quyết định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nếu vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày.
Trong quá trình thi hành án phát hiện có căn cứ để kiến nghị người có thẩm quyền xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án thì Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm kiến nghị với người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đó và thông báo ngay cho Tòa án VKSND biết. Cơ quan thi hành án dân sự phối hợp với VKS hai cấp trong công tác xét miễn, giảm thi hành án đảm bảo chặt chẽ, đủ điều kiện, đúng pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc các quyết định, yêu cầu của Cơ quan thi hành án; kiến nghị, kháng nghị của VKS.
Để kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong thi hành án dân sự theo định kỳ hàng quý (trừ những trường hợp đột xuất) lãnh đạo Cơ quan hành án dân sự, VKSND, TAND tổ chức họp trao đổi, xem xét giải quyết từng vụ việc cụ thể. Trong trường hợp cần thiết mời thêm các Ngành liên quan tham dự; Cơ quan thi hành án là đơn vị chủ trì, tổ chức, chuẩn bị các nội dung cuộc họp. Kết thúc cuộc họp, lãnh đạo các cơ quan sẽ có ý kiến thống nhất hướng giải quyết. Nếu vụ, việc phức tạp, vướng mắc thì báo cáo với Ban chỉ đạo thi hành án tỉnh Lâm Đồng hoặc liên ngành cấp trên xin ý kiến chỉ đạo.
5. Công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong công tác tiếp nhận, giải quyết, kiểm sát việc giải quyết đơn về tư pháp
5.1. Trách nhiệm của các cơ quan 
Tiếp nhận, phân loại khiếu nại, tố cáo về tư pháp để giải quyết hoặc chuyển đến cơ quan có trách nhiệm giải quyết theo quy định của pháp luật.
Rà soát, thống kê đầy đủ các khiếu nại, tố cáo về tư pháp đã tiếp nhận thuộc thẩm quyền để giải quyết.  
Đối với khiếu nại, tố cáo về tư pháp có liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, thì cơ quan thụ lý giải quyết thông báo cho các cơ quan có liên quan để phối hợp giải quyết.
VKSND có trách nhiệm kiểm sát trực tiếp việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp theo quy định.
5.2. Phối hợp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, từng cơ quan chủ động áp dụng các phương thức phối hợp với các cơ quan có liên quan. Tùy theo nội dung vụ, việc và đề nghị của cơ quan phối hợp để cử đơn vị chức năng tham gia.
Đối với khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài, khiếu kiện đông người, nội dung phức tạp do các Cơ quan Trung ương, lãnh đạo tỉnh chuyển đến hoặc có liên quan đến hoạt động của nhiều cơ quan thì cơ quan có trách nhiệm giải quyết chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan họp để bàn biện pháp giải quyết. Cơ quan có trách nhiệm giải quyết ban hành quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định giải quyết của mình.
Đối với khiếu nại, tố cáo mà cơ quan có trách nhiệm giải quyết đã ban hành văn bản giải quyết cuối cùng của người có thẩm quyền thì cơ quan giải quyết gửi 01 bản cho VKSND và các cơ quan phối hợp có liên quan để theo dõi.
Đối với khiếu nại, tố cáo về tư pháp do các cơ quan khác chuyển đến, cơ quan có trách nhiệm giải quyết thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã chuyển đơn.
5.3. Phối hợp trong việc thông tin, báo cáo
Định kỳ hàng tháng, quý, sáu tháng, 12 tháng (trừ các trường hợp cần thiết theo yêu cầu của các cơ quan Đảng, Nhà nước), các cơ quan thông báo tình hình, số liệu tiếp nhận, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp thuộc thẩm quyền; những khó khăn, vướng mắc và những kiến nghị đề xuất trong quá trình giải quyết loại đơn này về VKS để kiểm sát việc giải quyết đơn theo quy định. Định kỳ hàng tháng, VKSND có trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết đơn, nhất là đơn khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài hoặc quá hạn.
Các cơ quan có trách nhiệm cung cấp kịp thời tài liệu, báo cáo chuyên đề liên quan đến nội dung phối hợp.
Định kỳ 6 tháng hoặc trong trường hợp cần thiết VKSND chủ trì tổ chức họp liên Ngành để rút kinh nghiệm về công tác phối hợp.
5.4. Phối hợp trong công tác hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo
Công tác rà soát khiếu nại, tố cáo về tư pháp được tiến hành theo kế hoạch của từng ngành hoặc liên ngành theo yêu cầu của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Các cơ quan thống nhất với nhau về chương trình, kế hoạch, thời điểm, phương thức tiến hành. VKSND chịu trách nhiệm tổng hợp kết quả rà soát liên ngành.
Các cơ quan xây dựng kế hoạch hướng dẫn, kiểm tra về công tác giải quyết khiếu nại tố cáo về tư pháp của ngành mình hoặc thực hiện kế hoạch kiểm tra của liên ngành. VKSND có trách nhiệm chủ trì trong việc xây dựng kế hoạch hướng dẫn, kiểm tra liên ngành để các cơ quan phối hợp cùng thực hiện.
Viện kiểm sát 2 cấp có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đơn trong lĩnh vực tư pháp, khi có quyết định, kế hoạch kiểm sát các đơn vị có trách nhiệm cung cấp hồ sơ, sổ thụ lý, tài liệu và phối hợp với Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, thực hiện kết luận, kiến nghị, kháng nghị.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN  
Các cơ quan cùng ký quy định phối hợp liên ngành trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ có trách nhiệm phối hợp và tổ chức thực hiện trong Ngành mình; đồng thời chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, cơ quan tư pháp cấp huyện thực hiện nghiêm chỉnh quy định này.
Các cơ quan tư pháp cấp huyện, các đơn vị (cấp phòng) trực thuộc cơ quan tư pháp cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh Quy định này ở địa phương mình và cấp mình. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc cần báo cáo lãnh đạo ngành mình để phối hợp giải quyết, nếu chưa thống nhất báo cáo lãnh đạo liên ngành tư pháp cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên và cán bộ thuộc cơ quan tư pháp ở hai cấp có trách nhiệm phối hợp thường xuyên, chặt chẽ theo đúng quy định pháp luật. Qúa trình thực hiện quy định này nếu có vướng mắc thì tùy theo giai đoạn tố tụng và cơ quan thụ lý vụ, việc cần kịp thời đề xuất với lãnh đạo ngành mình để báo cáo lãnh đạo liên ngành xem xét, quyết định.
Định kỳ (hàng tháng, quý, 6 tháng, 12 tháng) các Cơ quan Điều tra, VKSND, TAND, Cơ quan thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành án dân sự ở hai cấp tổng hợp, báo cáo tình hình vi phạm trong hoạt động tư pháp của đơn vị mình, ngành mình cho VKSND cùng cấp và họp liên ngành để đánh giá tình hình vi phạm, tội phạm, kết quả công tác phối hợp liên ngành và việc thực hiện các chỉ tiêu theo Nghị quyết 37/2012/QH13 của Quốc Hội; đồng thời, thống nhất giải quyết những vụ, việc phức tạp nảy sinh. Thời gian, địa điểm họp liên ngành do Viện kiểm sát cùng cấp thông báo; trước khi họp liên ngành 2 ngày các cơ quan tư pháp cùng cấp phải gửi báo cáo (tình hình vi phạm, tội phạm, kết quả công tác phối hợp) đến VKSND cùng cấp để tổng hợp, xây dựng báo cáo phục vụ hội nghị liên ngành.
III. HIỆU LỰC THI HÀNH
Quy định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc cần sửa đổi, bổ sung đề nghị báo cáo kịp thời để Lãnh đạo liên ngành tư pháp cấp tỉnh thảo luận và thống nhất sửa đổi, bổ sung./.
 
GIÁM ĐỐC
CÔNG AN TỈNH LÂM ĐỒNG
 
(Đã ký)
 
 
 
 
Đại tá: Nguyễn Đức Hiệp
VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KSND TỈNH LÂM ĐỒNG
 
(Đã ký)
 
 
 
 
Nguyễn Tiến Sơn
 
 
 
CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
 
 
(Đã ký)
 
 
 
Võ Minh Phương
 
 
 
CỤC TRƯỞNG
CỤC THI HÀNH ÁN DS TỈNH LÂM ĐỒNG
 
 
( Đã ký)
 
 
 
Nguyễn Văn Hiển
 
* Nơi nhận:
- Liên ngành tư pháp TW;   
- Thường trực TU, HĐND, UBND tỉnh Lâm Đồng (để b/c);
- Ban chỉ đạo CCTP tỉnh (để b/c);
- Đoàn ĐBQH tỉnh (để b/c);
- Liên ngành tư pháp tỉnh (để thực hiện);
- Liên ngành tư pháp huyện,TP (để thực hiện);
- Lưu: VT, VKS tỉnh.
Tìm kiếm