Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng Thông tư liên tịch “Hướng dẫn một số hoạt động tố tụng hình sự liên quan đến người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên; người bị hại, người làm chứng là trẻ em”. Căn cứ Điều 74, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, là đơn vị chủ trì xây dựng Thông tư liên tịch, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đăng tải nội dung dự thảo Thông tư liên tịch trên Trang tin điện tửđể cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến. Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày đăng trên Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban soạn thảo sẽ tổng hợp ý kiến góp ý, chỉnh lý dự thảo trình lãnh đạo các ngành liên quan duyệt, ký ban hành. ý kiến tham gia gửi về Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội (Vụ 1A)), hoặc qua thư điện tử: thuynt@vksndtc.gov.vn
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO LẤY Ý KIẾN THAM GIA
DỰ THẢO THÔNG TƯ LIÊN TỊCH CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN
Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng Thông tư liên tịch “Hướng dẫn một số hoạt động tố tụng hình sự liên quan đến người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên; người bị hại, người làm chứng là trẻ em”. Căn cứ Điều 74, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, là đơn vị chủ trì xây dựng Thông tư liên tịch, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đăng tải nội dung dự thảo Thông tư liên tịch trên Trang tin điện tửđể cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến. Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày đăng trên Website Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban soạn thảo sẽ tổng hợp ý kiến góp ý, chỉnh lý dự thảo trình lãnh đạo các ngành liên quan duyệt, ký ban hành. ý kiến tham gia gửi về Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội (Vụ 1A)), hoặc qua thư điện tử: thuynt@vksndtc.gov.vn
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BỘ CÔNG AN - BỘ TƯ PHÁP -
BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI Hà Nội, ngày tháng năm 2009
Số: /2009/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTB&XH
Dự thảo
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn một số hoạt động tố tụng hình sự
liên quan đến người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo
là người chưa thành niên; người bị hại, người làm chứng là trẻ em
Để áp dụng đúng và thống nhất những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS) về thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hại, người làm chứng là trẻ em, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thống nhất hướng dẫn như sau:
PHẦN I
Về một số vấn đề chung
Điều 1. Mục đích
Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên và người bị hại, người làm chứng là trẻ em là những đối tượng dễ bị tổn thương. Do đó, họ cần được bảo vệ tuỳ theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự.
Điều2. Phạm vi áp dụng
Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên (là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi) và người bị hại, người làm chứng là trẻ em (là người dưới 16 tuổi) - gọi tắt là các vụ án liên quan đến người chưa thành niên - phải bảo đảm tuân thủ theo đúng những quy định tại Chương XXXII và các quy định khác của BLTTHS không trái với những quy định của Chương này.
Điều3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải:
1. Bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên, bảo đảm quyền của người chưa thành niên theo quy định của pháp luật được tôn trọng trong suốt quá trình tố tụng. Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên phải theo cách thức thân thiện và phù hợp với lứa tuổi của họ.
2. Bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên. Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phải được tiến hành trong môi trường thuận tiện cho việc bảo đảm bí mật đời tư và danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên.
3. Hạn chế đến mức thấp nhất số lần tiếp xúc giữa người bị hại, người làm chứng là trẻ em với bị can, bị cáo.
4. áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm người bị hại, người làm chứng là trẻ em cũng như người thân thích của họ được an toàn về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi các quyền ấy bị đe dọa hoặc bị xâm hại.
5. ưu tiên giải quyết nhanh chóng, chính xác, kịp thời các vụ án liên quan đến người chưa thành niên.
Điều4. Phân công, lựa chọn người tiến hành tố tụng
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng cần phân công các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã được đào tạo về điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên hoặc lựa chọn những người có kinh nghiệm trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến người chưa thành niên.
Điều5. Về việc áp dụng khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cần quan tâm xem xét áp dụng Khoản 2, Điều 69 Bộ luật hình sự để miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội và giao họ cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức giám sát, giáo dục nhằm giúp cho họ tự sửa chữa lỗi lầm, có cơ hội tái hoà nhập cộng đồng.
PHẦN II
Về một số vấn đề cụ thể
CHƯƠNG II
Thủ tục tố tụng hình sự đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Điều 10. Về việc xác định tuổi của bị can, bị cáo
Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày tháng sinh của bị can, bị cáo thì tuổi của họ được xác định như sau:
1. Nếu xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
2. Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
3. Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
4. Nếu xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng sinh của bị can, bị cáo thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
Điều11.Về việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
2. Đối với người chưa thành niên phạm tội không còn cha mẹ, không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ thì các cơ quan điều tra cần tìm mọi biện pháp để xác định lý lịch cũng như gia đình của họ. Trong trường hợp không xác định được thì cơ quan điều tra đề nghị cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc cơ quan, tổ chức khác ở nơi bắt giữ, nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội.
3. Khi đã chấp nhận đề nghị của cơ quan điều tra về việc cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội, cơ quan đã nhận trách nhiệm cần cử ngay cán bộ và kịp thời thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết để tạo điều kiện cho họ tiếp xúc, gặp gỡ người chưa thành niên phạm tội.
4. Người được giao nhiệm vụ giám sát người chưa thành niên phạm tội phải giám sát chặt chẽ, theo dõi tư cách đạo đức và giáo dục người đó.
Điều12.Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
1. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định chính xác độ tuổi của họ nhằm áp dụng đúng các quy định tại Điều 303 BLTTHS. Đối với các trường hợp bị bắt quả tang, bắt khẩn cấp thì sau khi bắt, cơ quan tiến hành tố tụng phải khẩn trương xác minh độ tuổi của họ để có quyết định xử lý phù hợp. Trước khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 303 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác quy định tại các Điều 91, 92, 93 BLTTHS.
Đối với người chưa thành niên đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính cần thiết của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó để kịp thời huỷ bỏ hoặc thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do đối với họ.
2. Khi bắt giữ người chưa thành niên phạm tội, trong trường hợp cần thiết phải sử dụng vũ lực thì việc sử dụng vũ lực phải theo đúng quy định của pháp luật và chỉ ở mức độ đủ để kiểm soát người chưa thành niên phạm tội.
3. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế việc phải gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm giam.
4. Người chưa thành niên phải được tạm giữ, tạm giam riêng, không được giam giữ chung với người đã thành niên. Khi xét thấy người chưa thành niên phạm tội có biểu hiện hoang mang, lo lắng có thể manh động dẫn đến việc tự sát thì cơ quan điều tra yêu cầu cơ sở giam giữ áp dụng các biện pháp phù hợp để tránh hậu quả xấu có thể xảy ra; trường hợp cần thiết thì có thể xem xét, bố trí tạm giữ, tạm giam chung với người đã thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt.
Chế độ tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải được bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
5. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải thông báo bằng văn bản cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định tại Khoản 3, Điều 303 BLTTHS.
Điều 13. Về sự tham gia của người bào chữa theo quy định tại Khoản 2, Điều 57, Điều 58 và Điều 305 BLTTHS
1. Bắt buộc phải có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Mọi trường hợp không có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên đều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trừ trường hợp họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa. Người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
2. Khi giao quyết định tạm giữ hoặc quyết định khởi tố bị can, cơ quan ra quyết định phải thông báo cho người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ về quyền có người bào chữa.
3. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
4. Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình, trừ trường hợp người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án có thể đề nghị Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý xem xét, thực hiện trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
5. Trong trường hợp bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì phải lập biên bản lưu trong hồ sơ vụ án.
6. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện quyền tiếp xúc, gặp gỡ với bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định của pháp luật.
Điều 14. Về việc lấy lời khai, hỏi cung bị can quy định tại Điều 131 và khoản 2 Điều 306 BLTTHS
1. Việc lấy lời khai, hỏi cung bị can là người chưa thành niên có thể được thực hiện tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Nơi lấy lời khai hoặc hỏi cung cần được bố trí theo cách thức thích hợp để làm giảm bớt sự căng thẳng, sợ hãi của người chưa thành niên.
2. Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế đến mức thấp nhất số lần lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can.
Điều tra viên, Kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành của họ.
Thời gian lấy lời khai, hỏi cung cần được xác định dựa trên độ tuổi, tình trạng tâm lý, sức khoẻ cũng như khả năng nhận biết, mức độ trưởng thành, phát triển của người chưa thành niên và yêu cầu điều tra. Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải được tạm dừng ngay khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
3. Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung. Trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên trách, cán bộ trợ giúp, tư vấn về pháp lý, y tế… cùng tham gia để tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ.
4. Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho đại diện của gia đình để bảo đảm sự có mặt của họ. Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can khi không có mặt đại diện gia đình chỉ được thực hiện trong trường hợp người đó không có gia đình, đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc họ từ chối tham gia.
Trường hợp đại diện gia đình của người bị tạm giữ, bị can không thể có mặt, để bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng được tiến hành kịp thời theo quy định, thì việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can vẫn được thực hiện nhưng cơ quan tiến hành tố tụng phải mời cán bộ thuộc một trong các cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên hoặc Luật sư tham gia lấy lời khai, hỏi cung.
Đại diện gia đình, cán bộ thuộc cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, đại diện Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Luật sư có thể được bố trí ngồi cạnh người chưa thành niên để tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ.
Nếu thấy cần thiết cho quá trình lấy lời khai, hỏi cung thì có thể cho đại diện gia đình hỏi người bị tạm giữ, hỏi bị can những câu hỏi mang tính chất động viên, thuyết phục, giáo dục. Đại diện gia đình không được hỏi những câu hỏi mang tính chất gợi ý, định hướng, câu hỏi mang tính chất khẳng định, phủ định liên quan đến vụ án. Khi thấy đại diện gia đình có dấu hiệu thông cung, mớm cung phải lập tức yêu cầu đại diện gia đình dừng ngay việc hỏi và lập biên bản về việc này.
5. Đại diện gia đình người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; khiếu nại các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra.
Điều 15. Về việc xét xử các vụ án do người chưa thành niên gây ra
1. Thành phần Hội đồng xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên.
2. Ngoài các trường hợp quy định tại Điều 18 BLTTHS, Toà án có thể quyết định xét xử kín các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra để tạo thuận lợi cho quá trình tái hoà nhập cộng đồng của họ.
Không tiến hành xét xử lưu động các vụ án do người chưa thành niên gây ra, trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
3. Khi tiến hành xét xử, Toà án có thể sắp xếp lại vị trí của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người chưa thành niên phạm tội.
Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử tại Toà án, trừ trường hợp họ có ý định tự sát, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên toà.
4. Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi họ học tập, sinh hoạt.
Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức tham gia phiên toà có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Toà án.
Trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, Toà án có thể mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác… tham gia phiên toà để hỗ trợ cho họ.
5. Việc thẩm vấn, xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên tại phiên toà phải theo quy định tại Điều 209 BLTTHS và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của bị cáo.
Những lời giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại phiên toà cần đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho người chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.
Hội đồng xét xử phải cho phép người chưa thành niên bày tỏ ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan điểm, nguyện vọng đó trước khi ra bản án, quyết định.
CHƯƠNG II
Thủ tục tố tụng hình sự đối với người bị hại, người làm chứng là trẻ em
Điều 16. Về việc xác định tuổi của người bị hại là trẻ em
Việc xác định tuổi của bị hại là trẻ em do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày tháng sinh của bị hại là trẻ em thì tuổi của họ được xác định như sau:
1. Nếu xác định được tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày sinh;
2. Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh;
3. Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy tương ứng của năm đó làm ngày sinh;
4. Nếu xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh.
Điều 17. Về việc giám hộ và trợ giúp đối với người bị hại là trẻ em
1. Khi xác định được người bị hại là trẻ em thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo ngay cho cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của người bị hại là trẻ em để họ có thể gặp gỡ và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng.
2. Ngoài các cá nhân tham gia tố tụng với tư cách là người giám hộ, người đại diện hợp pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể đề nghị đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, đại diện Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên ở nơi tiến hành tố tụng hoặc cán bộ hỗ trợ khác trợ giúp cho người bị hại là trẻ em, đặc biệt là những trẻ em không có gia đình, lang thang cơ nhỡ, trẻ em bị buôn bán, đánh tráo, chiếm đoạt khi họ hoặc gia đình họ có yêu cầu hỗ trợ về chỗ ở, tham vấn, chăm sóc y tế, sức khỏe, trợ giúp về mặt pháp lý, tâm lý… trong quá trình tố tụng hoặc khi xét thấy cần thiết.
3. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị cử cán bộ tham gia quá trình tố tụng để hỗ trợ cho người bị hại là trẻ em, các cơ quan, tổ chức được đề nghị cần cử ngay cán bộ và thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết để tạo điều kiện cho cán bộ hỗ trợ tiếp xúc, gặp gỡ người bị hại là trẻ em.
4. Cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp và cán bộ hỗ trợ đã nhận trách nhiệm trợ giúp cho người bị hại là trẻ em có thể tham gia trong các giai đoạn tố tụng của vụ án.
5. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải:
a) Đảm bảo cung cấp những thông tin cần thiết về quá trình tố tụng cho người bị hại là trẻ em cũng như cho cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp, cán bộ hỗ trợ của họ;
b) Đảm bảo sự có mặt của cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp, cán bộ hỗ trợ để họ có thể hỗ trợ, động viên người bị hại là trẻ em trong suốt quá trình tố tụng;
c) Đảm bảo người bị hại là trẻ em nhận được sự trợ giúp chuyên môn về mặt y tế, sức khỏe, pháp lý, tâm lý… phù hợp khi họ cần.
Điều 18. Về việc lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là trẻ em
1. Việc lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là trẻ em có thể được thực hiện tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Nơi lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là trẻ em cần được bố trí theo cách thức thích hợp để họ cảm thấy an toàn, thoải mái.
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là trẻ em phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành của họ.
3. Khi lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng là trẻ em phải mời cha mẹ, người đỡ đầu hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy cô giáo của người đó tham dự. Theo yêu cầu của người bị hại, người làm chứng là trẻ em hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia để hỗ trợ cho họ.
4. Cơ quan tiến hành tố tụng cần dựa trên độ tuổi, tình trạng tâm lý, sức khoẻ, khả năng nhận biết, mức độ trưởng thành, phát triển của người bị hại, người làm chứng là trẻ em và yêu cầu điều tra để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất số lần phải lấy lời khai cũng như xác định thời lượng các lần lấy lời khai đối với họ. Việc lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là trẻ em phải tạm dừng ngay khi họ có biểu hiện mệt mỏi ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
5. Việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai người bị hại là trẻ em, bao gồm cả việc kiểm tra dấu vết trên người, chụp ảnh thương tích, ghi âm, ghi hình… phải theo đúng quy định của BLTTHS và phải bảo đảm không làm ảnh hưởng tới tâm lý cũng như quyền bí mật thông tin cá nhân và danh dự, nhân phẩm của họ.
Khi lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là trẻ em, cơ quan tiến hành tố tụng có thể ghi âm, ghi hình và phải ghi vào biên bản về việc này để khi tiến hành xét xử vụ án, Hội đồng xét xử có thể sử dụng băng ghi âm, ghi hình đó bổ trợ cho các chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra.
6. Cơ quan tiến hành tố tụng phải hạn chế đến mức thấp nhất việc tiến hành đối chất giữa người bị hại là trẻ em với bị can, bị cáo để không làm tổn thương thêm tâm lý, tinh thần của họ. Đối với các vụ án xâm phạm tình dục, hành hạ, mua bán, chiếm đoạt trẻ em thì chỉ tiến hành đối chất khi thấy việc đó là cần thiết để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.
Điều 19. Về sự tham gia của người bảo vệ quyền lợi của người bị hại là trẻ em
1. Theo quy định tại Điều 59 BLTTHS thì người bị hại có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị hại là trẻ em hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của người bị hại là trẻ em về quyền của họ.
Trường hợp người bị hại là trẻ em hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bảo vệ quyền lợi cho mình thì theo yêu cầu hoặc đề nghị của họ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án cần yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử luật sư hoặc cơ quan, tổ chức có người bị hại là thành viên cử bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền lợi cho họ.
Cơ quan tiến hành tố tụng có thể giới thiệu họ đến các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để được trợ giúp, tư vấn.
2. Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là trẻ em có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS.
Điều 20.Về việc xét xử những vụ án có người bị hại là trẻ em
1. Khi tiến hành xét xử các vụ án có người bị hại là trẻ em, để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em, Toà án có thể vận dụng quy định tại Điều 307 BLTTHS để thành phần Hội đồng xét xử có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên như trong trường hợp xét xử các vụ án do người chưa thành niên gây ra.
2. Khi tiến hành xét xử, Toà án có thể sắp xếp lại đồ vật và vị trí của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người bị hại, người làm chứng là trẻ em.
Việc giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại phiên toà cần đơn giản, rõ ràng để giúp cho người bị hại, người làm chứng là trẻ em và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.
3. Để bảo vệ quyền riêng tư và danh dự, nhân phẩm của người bị hại là trẻ em và làm giảm cảm giác sợ hãi của họ, trước khi tiến hành xét xử, Toà án cần xem xét, cân nhắc các tình tiết liên quan đến vụ án để quyết định có xét xử kín hay không, đặc biệt là những vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, mua bán trẻ em.
4. Theo quy định tại Điều 191, 192 BLTTHS thì khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt hoặc khi người làm chứng vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. Do đó, đối với các vụ án có người bị hại, người làm chứng là trẻ em, đặc biệt là những vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, mua bán trẻ em, Toà án cần căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án để quyết định việc xét xử vụ án khi người bị hại, người làm chứng là trẻ em vắng mặt, hạn chế việc hoãn phiên toà.
5. Khi cần yêu cầu người bị hại, người làm chứng là trẻ em trình bày lời khai của mình tại phiên toà, trong điều kiện cho phép, Hội đồng xét xử có thể cho phép họ đứng sau màn chắn, bình phong để không nhìn thấy bị cáo hoặc làm chứng trực tiếp tại một phòng khác thông qua kết nối hệ thống camera.
6. Để người bị hại, người làm chứng là trẻ em có thể hiểu biết rõ hơn về Toà án, khi họ hoặc người đại diện hợp pháp, người bào chữa hoặc cha mẹ của họ có yêu cầu, Toà án có thể cho họ đến phòng xử án trước khi mở phiên toà xét xử vụ án liên quan đến họ.
PHẦN III
Tổ chức thực hiện
Điều21. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực sau bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày ký ban hành. Những quy định trong các văn bản hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội liên quan đến người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người bị hại, người làm chứng là trẻ em nếu trái với Thông tư này thì bị bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề cần phải giải thích, hướng dẫn đề nghị phản ánh cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời./.
KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Hoàng Nghĩa Mai
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ CÔNG AN
THỨ TRƯỞNG
Lê Thế Tiệm
|
KT. CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Đặng Quang Phương
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
THỨ TRƯỞNG
Hoàng Thế Liên
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
THỨ TRƯỞNG
Phùng Ngọc Hùng
|