TỪ NGUYỄN SINH CUNG, NGUYỄN TẤT THÀNH ĐẾN NGUYỄN ÁI QUỐC - TẤM GƯƠNG KIÊN TRÌ HỌC TẬP VÀ LÒNG HIẾU THẢO
Tiến sỹ KHUẤT VĂN NGA - Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Rất nhiều tuyển tập, cũng như Toàn tập Hồ Chí Minh đều lấy tài liệu chính thức bắt đầu từ 1920 (Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp mà Hồ Chí Minh tham gia từ 1919, tức là ở Đại hội Tua, cũng là Đại hội sáng lập Đảng Cộng sản Pháp) làm xuất phát điểm. Đó cũng là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vậy trước 1920, cũng như trước nhiều năm sau này, Người là ai? và chúng ta học tập ở Người đức tính gì?, khi Người là cậu bé Nguyễn Sinh Cung và anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đến đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tôi muốn đề cập đến: Tinh thần ham học hỏi với một sự nhẫn nại và lòng kiên trì phi thường, cũng như tấm lòng kính yêu cha mẹ và người thân của Người.
2. Có một việc trùng hợp lịch sử về tinh thần ham học, vượt khó khăn của người cha Chủ tịch Hồ Chí Minh với Người. Phụ thân của Người là Nguyễn Sinh Sắc (sinh năm 1862). Ông Sắc lên 3 tuổi thì cha mất, lên 4 tuổi thì mẹ mất. Sinh Sắc phải sớm chăn trâu, cắt cỏ, ở với người anh cùng cha khác mẹ. Nguyễn Sinh Sắc nổi tiếng là ham mê học tập, lan khắp cả vùng. Nhờ đó Sinh Sắc được ông Hoàng Xuân Đường, một nhà nho thanh bạch yêu quí nhận làm con nuôi. Rồi đến năm 1883, lúc Sinh Sắc 21 tuổi được ông Hoàng gả con gái là Hoàng Thị Loan cho. Năm 1884, Bà Loan sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh; năm 1888, sinh con trai thứ 2 là Nguyễn Sinh Khiêm. Năm 1890, sinh con trai thứ 3 là Nguyễn Sinh Cung (sau này Nguyễn Tất Thành thường khai sinh là năm 1892).
3. Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành học tiểu học đến năm 20 tuổi ở Huế, Nghệ An, Bình Định (1890 - 1910).
Nguyễn Sinh Cung từ lúc sinh đến năm lên 5 tuổi sống ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An. Năm 1894 Ông Sinh Sắc đậu cử nhân trong kỳ thi hương ở Nghệ An. Năm 1895, Sinh Sắc đưa vợ và Sinh Cung, Sinh Khiêm vào Huế để thi Hội lần thứ nhất, nhưng Ông không đậu. Gia đình ông Nguyễn Sinh Sắc tiếp tục ở Huế đến 1898, Ông thi Hội lần thứ 2, nhưng Sinh Sắc vẫn không đỗ nên phải về làng Dương Nỗ cách Huế 6 km để dạy học.
- Nguyễn Sinh Cung học tiếng Hán 1898 - 1903
Ở Dương Nỗ, Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán năm 1898, tập viết chữ Hán trong sách mỗi trang có 4 hàng chữ to, nền giấy đen chữ trắng, Sinh Cung (cùng học trò khác) lấy bút lông chấm son đỏ để tô vào chữ trắng.
Năm 1900, Sinh Sắc đưa Sinh Khiêm cùng ra Thanh Hóa coi thi và sau đó về quê Kim Liên để sửa sang mồ mả nội ngoại. Sinh Cung ở lại với mẹ tại Huế. Bà Loan sinh con thứ 4, bé gái tên “Xin” bị chết. Ngày 10/02/1901, Bà Loan mất. Sinh Cung lúc đó mới 11 tuổi. Ông Sinh Sắc lại vào Huế đón Sinh Cung về quê.
- Năm 1901, Nguyễn Tất Thành
Năm 1901, Sinh Sắc đổi tên là Nguyễn Sinh Huy để lại vào Huế tiếp tục thi Hội lần thứ 3. Sinh Cung ở lại quê được bà ngoại gửi đi học chữ Hán ở làng Hữu Biệt cách Hoàng Trù 3 km. Năm 1901 đó, ông Sinh Huy đỗ Phó bảng. Sinh Huy đưa 3 con về quê nội Kim Liên sinh sống. Khi được làm lễ vào làng Kim Liên, Nguyễn Sinh Cung được đổi tên thành Nguyễn Tất Thành. Sinh Huy gửi Nguyễn Tất Thành học chữ Hán ở lớp của thầy Vương Thúc Quý. Năm 1903, Sinh Huy dạy học ở Thanh Chương, Tất Đạt và Tất Thành được đi cùng. Tất Thành được học chữ Hán với thầy đồ Trần Thân. Năm 1905, Tất Thành có lần theo cha ra tận Thái Bình, đất Bắc và đi rất nhiều nơi ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Thời gian học chữ Hán khoảng từ 1898 – 1903, khoảng 5 năm, nhưng sau này qua tập Ngục Trung Nhật Ký viết vào năm 1941- 1942 cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh có một vốn Hán học rất sâu sắc và tập thơ của Người có phong vị Đường thi với một nội dung vừa bình dị mà sâu sắc, vừa ý nhị mà tha thiết với lối sử dụng luật đối xứng trong thơ rất hoàn hảo. Ví dụ như bài Nạn hữu xuy địch:
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu.
Hoặc như bài Vọng Nguyệt:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Hoặc như bài Mộ:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
- Năm 1905, Nguyễn Tất Thành bắt đầu học tiếng Pháp
Tháng 9/1905, Pháp mở trường thuộc địa bản xứ tại Vinh, với lớp đầu tiên của tiểu học gọi là lớp dự bị, Tất Thành được đi học ở trường Vinh, chủ yếu học tiếng Pháp, một ít giờ học chữ Hán. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu học tiếng Pháp từ năm 1905. Tháng 05/1906, Sinh Huy phải vào Huế do được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ Lễ. Nguyễn Tất Thành được đi cùng và do đó anh phải học lại lớp dự bị tại Trường tiểu học Pháp Việt Đông Ba, niên khóa 1906-1907 vì ở Vinh đang học dở. Sau đó là lớp sơ đẳng (1907 - 1908). Năm học 1908 - 1909, Nguyễn Tất Thành chuyển sang học lớp nhì ở Trường Quốc học Huế.
Tháng 05/1909, Sinh Huy được cử làm giáo viên phúc khảo kỳ thi Hương tại Bình Định, tiếp theo Sinh Huy được cử làm Tri phủ huyện Bình Khê, Bình Định. Nên cuối 1909, Tất Thành phải rời Trường Quốc học Huế vào Bình Định với cha. Ông Sinh Huy gửi Tất Thành học lớp Nhất Trường tiểu học Pháp Việt Quy Nhơn. Tháng 01/1910, Sinh Huy bị triệt hồi chức Tri huyện, phải cùng Sinh Khiêm trở về Huế. Chỉ còn một mình Tất Thành ở lại Quy Nhơn học hết chương trình tiểu học vào tháng 6 năm 1910. Như vậy Nguyễn Tất Thành đến năm 20 tuổi mới học xong chương trình tiểu học, phải học rất nhiều nơi, chuyển nhiều trường, đứt quãng và rất khó khăn từ Nghệ An - Huế đến Bình Định. Nguyễn Tất Thành đã không quay về Huế mà đi xuống phía Nam.
4. Năm 1910 - 1920, Nguyễn Tất Thành vừa làm vừa học tiếng Anh, tiếng Pháp.
- Tháng 8/1910, Tất Thành không quay về Huế với cha mà vào làm trợ giáo môn thể dục Trường Dục Thanh ở Phan Thiết với mức lương 8 đồng Đông Dương, đồng thời phụ trách các hoạt động ngoại khóa. Anh dành thời gian để đọc sách rất nhiều.
- Đầu tháng 2 năm 1911, sau khoảng 6 tháng ở Phan Thiết, Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn, tạm trú ở nhiều chỗ. Trước khi xuống tàu ra nước ngoài 3 ngày, ở 128 Khánh Hội, đó là chỗ của một nhà máy nước mắm cũ.
- Ngày 03 tháng 6 năm 1911, Tất Thành lấy tên là Văn Ba xuống tàu Amiran Latusơ - Tơrevin xin làm phụ bếp. Ngày 05/6/1911, tàu này đi Mác Xây. Trên cùng chuyến tàu có ông Bùi Quang Chiêu, kỹ sư nông học Pháp hơn anh Ba 20 tuổi hỏi Ba: “Sao con lại làm cái nghề khó nhọc này, bỏ nghề này đi chọn nghề khác danh giá hơn”. Ba cảm ơn ông Chiêu nhưng không nói đồng ý hay là không. Hàng ngày phải lao động rất cực nhọc, nhưng Văn Ba vẫn thức khuya để đọc sách và học tập.
- Ngày 06 tháng 7 năm 1911, tàu đến Mác Xây. Sau đó 2 tháng, ngày 15 tháng 9 năm 1911, Tất Thành viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng thuộc địa Pháp xin được vào học Trường Thuộc địa ở Pháp. Việc làm đầu tiên ở Pháp của Nguyễn Tất Thành là đi xin học. Nhưng tháng 10 năm 1911, Chính phủ Pháp từ chối việc xin học của anh. Nguyễn Tất Thành lại lên tàu trở về Sài Gòn.
- Ngày 31 tháng 10 năm 1911, Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển giúp số tiền 15 đồng cho cha mà anh không có điều kiện gửi trực tiếp. Số tiền anh Ba dành dụm được khi làm phụ bếp - một cử chỉ rất đáng quan tâm về trách nhiệm và tình cảm thương mến với gia đình.
Lần đầu tiên ra nước ngoài xin đi học của Nguyễn Tất Thành đã không được đáp ứng.
- Năm 1912, Tất Thành lại xuống tàu chở hàng đi châu Phi, Trung Nam Mỹ rồi đến Mỹ. Đây là lần thứ hai Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài và anh nói là “muốn đi xem các nước.” Chuyến đi này (1912) cho đến mãi năm 1941 mới trở về quê hương đất nước. Tàu qua Á, Phi, Mỹ La Tinh rồi đến Mỹ vào cuối năm 1912 ở thành phố New York. Tất Thành kể lại là: “Khi đó anh cũng chưa hiểu lắm về chính trị”.
- Ngày 05 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của ông Sinh Huy, Tất Thành nói đã gửi cho cha 3 ngân phiếu, nhưng mới chỉ nhận được một lần trả lời.
Giữa 1913, Nguyễn Tất Thành học tiếng Anh
Ở Mỹ từ cuối 1912 đến khoảng giữa năm 1913, Tất Thành rời Mỹ về Anh, Tất Thành nói là để học tiếng Anh và xem nước Anh ra sao (một vấn đề rất thời sự là học tiếng Anh giai đoạn hiện nay). Ở Luân đôn, Tất Thành xin làm quét tuyết cho một trường học, sau đó làm thợ đốt lò ở Trung tâm sưởi ấm. Lao động cực kỳ nặng nhọc, tiền công rất thấp nhưng anh phải dùng số tiền này để trả công thầy dạy tiếng Anh gần hết, rồi đi làm bồi bàn ở khách sạn Các lơ tôn.
Nguyễn Tất Thành vừa lao động vừa học tập và tham gia Hội những người lao động hải ngoại (một tổ chức tiến bộ của người Châu Á ở Anh).
- Ngày 16 tháng 4 năm 1915, Nguyễn Tất Thành thông qua Lãnh sự Anh ở Sài Gòn gửi Toàn quyền Đông Dương bức thư của anh tới cha anh là ông Sinh Huy. Chính quyền địa phương đã hỏi bà Thanh, ông Khiêm về tin tức nhưng chỉ biết cha Sinh Huy đã vào Nam từ cuối 1911 đến đầu năm 1912 làm ở đồn điền cao su ở Lộc Ninh, Thủ Dầu Một.
- Sống làm việc ở Anh, Nguyễn Tất Thành đã trang bị được cho mình một trình độ tiếng Anh vững vàng trong khoảng thời gian từ giữa năm 1913 đến cuối năm 1917 (khoảng hơn 4 năm). Đó là một công cụ rất quan trọng trong đấu tranh chính trị. Xem bức thư của Bác Hồ gửi cho Charles Fenn, một sỹ quan Mỹ thuộc lực lượng OSS ngày 09 tháng 6 năng 1945 với một lối chữ viết và lời văn rất rõ ràng càng thấy rõ điều đó. Bức thư này được công bố trong một cuốn sách do các tác giả người Mỹ viết và do chính Fenn giới thiệu năm 2003 có tiêu đề: “Ho Chi Minh - a Portrait”.
- Khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành rời Anh để đi sang Pháp. Cả năm 1918 đến giữa năm 1919, Đảng Xã hội Pháp mới tìm kiếm cho Tất Thành được một thẻ lao động hợp pháp. Ở Paris, Tất Thành được cụ Phan Châu Trinh dạy cho nghề làm ảnh. Đầu năm 1919, Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Được hỏi vì sao vào Đảng xã hội Pháp, Tất Thành trả lời “Vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng vĩ đại: Tự do, bình đẳng, bác ái”.
Tháng 6/1919, tên Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên xuất hiện
- Hội nghị các nước Đế quốc họp ở Véc xây (Pháp) sau thế chiến thứ Nhất (1914 - 1918). Nhóm người yêu nước Việt Nam đã đưa ra Bản yêu sách 8 điểm bằng tiếng Pháp của Phan Châu Trinh - Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành. Bản yêu sách ký tên Nguyễn Ái Quốc, tên Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên xuất hiện, khoảng ngày 18 tháng 6 năm 1919.
Ý kiến về việc đưa ra Bản yêu sách do Nguyễn Tất Thành đề xuất nhưng khi làm văn bản do Luật sư Phan Văn Trường viết bằng tiếng Pháp - Nguyễn Ái Quốc viết văn bản này bằng chữ quốc ngữ và chữ Hán (Trần Dân Tiên).
- Nguyễn Ái Quốc - tên gọi thiêng liêng xuất hiện, làm thực dân Pháp run sợ, nhưng tên gọi đó lại trở thành linh hồn và lời hiệu triệu của người Việt Nam yêu nước. Danh xưng Nguyễn Ái Quốc từ chỗ là tượng trưng cho nhóm người Việt yêu nước trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành.
- Báo Đời Sống Công Nhân xuất bản ở Paris bằng tiếng Pháp lúc đó có mục tin vắn mỗi tờ chỉ 5, 3 dòng. Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên viết bằng tiếng Pháp những tin rất ngắn và được một người bạn Pháp sửa cho. Mỗi bài Nguyễn viết làm 2 bản: 01 bản gửi báo, 01 bản giữ lại, khi báo đăng thì so sánh với hai bản viết lại để rút kinh nghiệm. Cứ dần dần viết dài thêm 15, 20 dòng rồi cả một cột báo. Sau đó người bạn Pháp lại bảo Nguyễn viết ngắn lại. Đến một lúc thì có thể vừa viết được ngắn, vừa viết được dài. Người đã học tiếng Pháp qua việc thể hiện những tư tưởng sắc bén trên hàng loạt bài báo, bằng cách làm rất bình dị và khiêm tốn.
Bài báo đầu tiên với tính cách là một bài báo của Nguyễn Ái Quốc đó là bài “Vấn đề dân bản xứ” đăng trên báo Nhân đạo ngày 02/8/1919 xuất bản ở Paris.
Nguyễn Ái Quốc đã học tiếng Pháp, thể hiện tiếng Pháp với sự kiên trì và hiệu quả từ thực tiễn làm báo như vậy đó.
Thay cho lời kết
- Có nhiều phẩm chất để làm nên Lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại của lịch sử và thời đại chúng ta. Tinh thần ham học hỏi và kiên trì học tập là một trong những phẩm chất đó, rất đáng để các thế hệ người Việt Nam học tập.
- Không nỗ lực học tập như vậy thì năm 1925 không thể viết được Bản án chế độ thực dân Pháp và năm 1927 viết cuốn Đường cách mạng, cuốn sách chỉ đường cho cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam.
- Có thể sẽ không có Hồ Chí Minh nếu không có Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc vượt qua muôn vàn gian khó để học tập, trong đó có học chữ Hán, học tiếng Anh, học tiếng Pháp và sau này là tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Trung Quốc, tiếng Quảng Đông, tiếng Xiêm.v.v. với một tinh thần ham học hỏi bằng lòng nhẫn nại và sự kiên trì phi thường trên con đường hoạt động cách mạng. Qua cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng thấm thía chân lý: Không có tri thức cách mạng thì không có phong trào cách mạng, không có hoạt động cách mạng.
- Có một logic biện chứng giữa một người con hiếu thảo chắt chiu từng đồng tiền bằng lao động nặng nhọc của mình để gửi cho cha với vị lãnh tụ của đất nước trước nạn đói của đồng bào đã tự mình hàng ngày nhịn ăn một bữa và kêu gọi nhân dân cùng làm để từng gia đình lập hũ gạo cứu đói cho dân, vị lãnh tụ đã cơm cà rau muống với dân. Hai con người đó là một. Đó là một nhân cách lớn thấm nhuần tư tưởng nhân văn sâu sắc.
- Hiện nay chúng ta đang đứng trước nhu cầu rất lớn và cấp bách của cải cách tư pháp là đào tạo một đội ngũ cán bộ “cập nhật được các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. “Tiến hành đào tạo đủ số lượng cán bộ Tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế.” Đó là những định hướng đào tạo cán bộ Kiểm sát rất cơ bản của chúng ta. Chúng ta đã có các chương trình đào tạo mới về hội nhập quốc tế, các chương trình đào tạo phục vụ cho việc tăng thẩm quyền cấp huyện, đào tạo tiếng Anh và tin học, đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ ở trong nước và nước ngoài.v.v. Học tập lại đang nổi lên như một yêu cầu thôi thúc của thời đại mới. Các chương trình đào tạo, công tác tổ chức cán bộ, chính sách.v.v. dĩ nhiên là tạo điều kiện cho môi trường học tập. Nhưng tự giác học tập giữ vị trí vô cùng quan trọng. Tấm gương học tập của Bác Hồ, trước hết ở sự tự giác, sự vươn lên vì tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc và cả danh dự của dân tộc nữa. Tôi nghĩ rằng: Toàn thể cán bộ đảng viên chúng ta trước hết là đảng viên trẻ, các đồng chí đoàn viên thanh niên cộng sản, các cán bộ thuộc nguồn qui hoạch đào tạo v..v hơn lúc nào hết noi theo tấm gương kiên trì học tập của Bác Hồ, với một “tinh thần xông lên trời” như Các Mác đã nói; bởi vì Đảng, Tổ quốc và nhân dân đang cần chúng ta làm như vậy.