CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

BÁO CÁO ĐỀ DẪN Hội nghị khảo sát thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011)

24/08/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
1. Sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, nhằm thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng trong Nghị quyết 08 -NQ/TW và cụ thể hóa Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002...
BÁO CÁO ĐỀ DẪN
Hội nghị khảo sát thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002,
Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011)
1. Sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, nhằm thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng trong Nghị quyết 08 -NQ/TW và cụ thể hóa Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp (sửa đổi) và Luật TCVKSND năm 2002, toàn ngành Kiểm sát đã tập trung củng cố về tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, tăng cường cơ sở vật chất để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đến nay, do những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật đã có những nội dung mới, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, Đảng ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng, thể hiện ở Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị “về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Trước yêu cầu của tình hình mới, nhiều quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập đòi hỏi phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của VKSND, bảo đảm thiết chế VKSND có đủ năng lực, làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và vi phạm pháp luật trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Xuất phát từ lý do nêu trên, theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Quốc hội đã giao nhiệm vụ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan xây dựng dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) (trên cơ sở pháp điển hóa Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011). Dự án Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua trong nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội.
2. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Lãnh đạo VKSNDTC, Ban soạn thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) đã ban hành các kế hoạch triển khai các hoạt động nghiên cứu, xây dựng Luật. Một trong những quan điểm chỉ đạo, cũng là yêu cầu đối với việc xây dựng dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) là phải trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn hi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011) nhằm kế thừa, phát huy những nội dung còn phù hợp, chỉ rõ những hạn chế, vướng mắc cần phải được sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ - đây được coi là nhiệm vụ trọng tâm, phải được hoàn thành cơ bản trong năm 2012.
Thực hiện yêu cầu nêu trên, ngày 16/7/2012, Ban soạn thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) đã ban hành Kế hoạch số 64/KH-VKSTC-V8 về việc tổng kết thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011) trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân (riêng việc tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự sẽ do bộ Quốc phòng chỉ đạo thực hiện, sau khi hoàn thành báo cáo tổng kết sẽ chuyển cho ban saonj thảo để tâoj hợp, xây dựng báo cáo tổng kết chung).
Kế hoạch số 64/KH-VKSTC-V8 nêu rõ yêu cầu của Ban soạn thảo: “Việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành các luật, pháp lệnh phải chỉ rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong việc thi hành các luật, pháp lệnh, trên cơ sở đó xác định những nội dung của các luật, pháp lệnh đã được thực tiễn kiểm nghiệm cần tiếp tục kế thừa; kiến nghị những nội dung của các luật, pháp lệnh cần được sửa đổi, bổ sung; đề xuất những nội dung mới để xây dựng Luật tổ chức VKSND (sửa đổi) đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, thể chế hóa đúng đắn, kịp thời quy định của Hiến pháp về Viện kiểm sát nhân dân”.
Để việc tổng kết thực sự sâu sắc, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Kế hoạch số 68/KH-VKSTC ngày 25/7/2012 tổ chức các Đoàn khảo sát của VKSNDTC đến làm việc tại VKSND một số tỉnh, thành phố đại diện cho các khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam để lắng nghe, ghi nhận những ý kiến từ cơ sở về thực tiễn thi hành Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2002 (sửa đổi năm 2011) qua tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát hai cấp ở địa phương.
3. Một số vấn đề lớn cần tập trung thảo luận tại Hội nghị:
(1) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong các lĩnh vực công tác nghiệp vụ của Viện kiểm sát; từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp.
Thứ nhất, cần đánh giá về sự phù hợp hay chưa phù hợp của nội dung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong Luật tổ chức VKSND năm 2002 nhìn từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát 02 cấp ở địa phương; nếu chưa phù hợp thì đề xuất, kiến nghị nên quy định như thế nào để bảo đảm sự phù hợp;
Thứ hai, đánh giá về cách thức thể hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 có sự trùng lặp với quy định của các đạo luật về tố tụng tư pháp (TTHS, TTDS, TTHC…) và có nội dung còn thiếu so với quy định của các đạo luật này, vì vậy, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) chỉ nên quy định về tổ chức hệ thống Viện kiểm sát và quan hệ giữa Viện kiểm sát các cấp, còn chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát thì nên quy định ở các luật tố tụng tư pháp
Ý kiến khác lại cho rằng, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) vẫn nên quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trên các lĩnh vực công tác thực hiện chức năng để tạo cơ sở pháp lý cho việc cụ thể hóa các nội dung này trong các đạo luật về tố tụng tư pháp (Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính, Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự…).
(2) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về các nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; trên cơ sở đó, đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp. 
Thứ nhất, về nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong Ngành
Đây được coi là nguyên tắc “vàng” của Viện kiểm sát nhân dân, bảo đảm cho cả hệ thống Viện kiểm sát hoạt động thống nhất, vận hành trôi chảy, sử dụng đúng và đủ các quyền năng pháp lý do luật định, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Tuy nhiên, đến nay, có ý kiến cho rằng nguyên tắc này chỉ phù hợp khi Viện kiểm sát còn thực hiện chức năng kiểm sát chung, đến nay, cần phải xem xét lại phạm vi của nguyên tắc này (chỉ áp dụng trong quản lý tổ chức hệ thống Viện kiểm sát hay áp dụng cả trong hoạt động thực hiện chức năng?).
Thứ hai, nguyên tắc độc lập của Viện kiểm sát với các cơ quan nhà nước khác và sự độc lập của Kiểm sát viên
- Từ khi được thành lập (vào năm 1960 đến nay), Viện kiểm sát luôn được tổ chức thành một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, không phụ thuộc vào chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát luôn có sự phối hợp với các cơ quan Nhà nước ở địa phương, vậy, có vấn đề gì trong việc bảo đảm thực hiện tốt quan hệ phối hợp; đồng thời vẫn bảo đảm sự độc lập của Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
- Hiện nay, theo yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi tăng cường tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, tăng quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên, điều tra viên để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình; vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung những quy định gì để bảo đảm sự độc lập của Kiểm sát viên; đồng thời đặt trong quan hệ với nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Thứ ba, nguyên tắc kết hợp giữa vai trò lãnh đạo của Viện trưởng và chế độc làm việc tập thể cũng như quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của Ủy ban kiểm sát
 Trước đây, Ủy ban kiểm sát chỉ có vai trò tư vấn cho Viện trưởng, từ Hiến pháp năm 1992 đến nay, Ủy ban kiểm sát có vai trò quyết định đối với một số vấn đề quan trọng, như vậy có phù hợp không? có vấn đề gì vướng mắc không? và cần sửa đổi, bổ sung như thế nào?
(3) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về tổ chức hệ thống Viện kiểm sát và quan hệ giữa Viện kiểm sát các cấp; trên cơ sở đó, đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp.
Thứ nhất, hiện nay Viện kiểm sát được tổ chức thành 3 cấp, theo đơn vị hành chính, tương ứng với tổ chức hệ thống Tòa án và cơ quan điều tra. Theo yêu cầu cải cách tư pháp, trong thời gian tới, tổ chức hệ thống Viện kiểm sát phải được đổi mới tương ứng với tổ chức hệ thống Tòa án, thành 4 cấp, theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính; nhưng vẫn phải bảo đảm đáp ứng yêu cầu tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra.
Vậy, quá trình triển khai nghiên cứu việc thành lập Viện kiểm sát khu vực tại địa phương đã phát hiện được những vấn đề gì; đề xuất, kiến nghị đổi mới tổ chức Viện kiểm sát như thế nào để đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, về tổ chức cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân: nên tổ chức ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao như hiện nay hay cần thành lập thêm các cơ quan đại diện đặt tại các khu vực hoặc ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; vấn đề tăng cường đội ngũ cán bộ, điều tra viên của cơ quan điều tra Viện kiểm sát.
(4) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về các chức danh pháp lý của VKSND; đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp.
- Hiện nay, Luật tổ chức VKSND năm 2002 chỉ quy định 02 chức danh: Kiểm sát viên và Điều tra viên; quy định như vậy đã phù hợp chưa, có cần bổ sung các chức danh khác nữa không (ví dụ: kiểm tra viên hoặc trợ lý Kiểm sát viên…);
- Vấn đề pháp điển các quy định về Kiểm sát viên trong Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND vào Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) như thế nào: quy định về ngạch, bậc Kiểm sát viên, cơ cấu Kiểm sát viên ở mỗi cấp Viện kiểm sát; nhiệm vụ, quyền hạn, nhiệm kỳ của Kiểm sát viên; chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên…
- Trong thời gian tới, nếu Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành 4 cấp tương ứng với tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân theo khu vực, không phụ thuộc đơn vị hành chính thì ngạch Kiểm sát viên cần phải đổi mới như thế nào?, có nên chuyển từ 03 ngạch Kiểm sát viên (Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp) thành 4 ngạch Kiểm sát viên (Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp) hay không?
(5) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về “Bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân”; đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp.
- Về việc quyết định biên chế, số lượng Kiểm sát viên, điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân (chỉ quyết định tổng biên chế, số lượng Kiểm sát viên của toàn Ngành hay quyết định biên chế, số lượng Kiểm sát viên của từng cấp Viện kiểm sát)
- Chế độ tiền lương, phụ cấp, trang phục, các chế độ đãi ngộ khác đối với Kiểm sát viên, điều tra viên của Viện kiểm sát ;
- Kinh phí hoạt động của Viện kiểm sát.
(6) Đánh giá về kỹ thuật lập pháp (cách thức thể hiện các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân); đề xuất, kiến nghị, nhất là đề xuất cách thức pháp điển háo các quy định của 02 Pháp lệnh để đưa vào Luật.
4. Một số đề nghị khi phát biểu:
Thứ nhất, các nhận xét, đánh giá cần được phản ánh một cách trung thực, chính xác, có số liệu minh họa. Các ý kiến nhận xét, đánh giá cần dựa trên kết quả phân tích số liệu bằng phương pháp khoa học, bảo đảm độ tin cậy, các sự kiện thực tế phải được đặt trong mối quan hệ với những vấn đề có liên quan để xem xét, lý giải.
Thứ hai, đối với từng nội dung, đề nghị nêu rõ: những thuận lợi (những kết quả đạt được), những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của Luật, Pháp lệnh đối với các công tác của Viện kiểm sát, trong đó nêu rõ những vướng mắc nào do quy định của Luật, Pháp lệnh; những vướng nào do nhận thức, thực hiện; những vướng mắc nào là do yêu cầu của tình hình mới đặt ra mà khi xây dựng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Pháp lệnh năm 2002 chưa dự liệu được; chỉ rõ nguyên nhân của những thành tựu để tiếp tục kế thừa và phát huy, nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc để tìm giải pháp khắc phục (các nguyên nhân cần được nhìn nhận cả dưới góc độ khách quan và chủ quan, trong đó tập trung vào nguyên nhân từ pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật).  
Thứ ba, đối với đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật, đề nghị nêu rõ lý do và đề xuất cụ thể hướng sửa đổi, bổ sung./. 
Tìm kiếm