CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Hội nghị khảo sát thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

25/08/2012
Cỡ chữ:   Tương phản
Qua Hội nghị khảo sát thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng báo cáo đề dẫn để bạn đọc cùng tham khảo:...
Hội nghị khảo sát thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Qua Hội nghị khảo sát thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, trang tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao trích đăng báo cáo đề dẫn để bạn đọc cùng tham khảo:
1. Bộ luật TTHS được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2004. Bộ luật TTHS năm 2003 ra đời đã bước đầu thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyếtt 08-NQ/TW của Bộ Chính trị; góp phần vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ tư pháp, nhằm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Bộ luật cũng đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án; đồng thời xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.
Qua 08 năm thực hiện, Bộ luật TTHS đã góp phần rất tích cực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, quá trình thi hành các quy định của Bộ luật TTHS trong những năm vừa qua đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc. Một số quy định về trình tự thủ tục tố tụng hình sự chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng luật không thống nhất, như các quy định về thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; trách nhiệm giữa các cơ quan và người tiến hành tố tụng; các quy định về thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng… Những hạn chế, vướng mắc nờu trên đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, chua đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tình hình mới.
Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, vừa qua Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến 2020, chỉ rõ phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự, nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Với các yêu cầu về cải cách tư pháp, đặc biệt là yêu cầu về hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp, Nghị quyết 49-NQ/TW đã đề cập một cách toàn diện các nội dung cải cách tư pháp, trong đó chỉ rõ việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự.
2. Để thể chế hóa các chủ trương của Đảng về cải cách thủ tục TTHS; đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập qua thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003, Quốc hội đã ra Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26/11/2011 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ khóa XIII, giao nhiệm vụ cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan xây dựng dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi).
Một trong những quan điểm chỉ đạo, cũng là yêu cầu đối với việc xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) là phải trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nhằm kế thừa, phát huy những quy định còn phù hợp; đồng thời, sửa đổi, hủy bỏ những quy định không còn phù hợp, bổ sung những quy định mới, phù hợp với thực tiễn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội giao, Ban Soạn thảo dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) đã ban hành Kế hoạch tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 gửi tới tất cả các bộ, ngành hữu quan để yêu cầu tổng kết. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã ban hành Kế hoạch tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong ngành Kiểm sát nhân dân. Việc khảo sát thực tiễn tại các địa phương nhằm thực hiện việc tổng kết, đánh giá từ cơ sở về thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong những năm qua, góp phần xây dựng báo cáo tổng kết đánh giá chung của toàn ngành Kiểm sát và của Ban soạn thảo.
3. Một số vấn đề mang tính định hướng để Hội nghị trao đổi, thảo luận:
(1). Đánh giá thực tiễn áp dụng các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự (30 nguyên tắc) theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về các nguyên tắc cơ bản của TTHS đảm bảo phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
- Đánh giá tính phù hợp/chưa phù hợp của hệ thống các nguyên tắc;
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nguyên tắc của TTHS nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp như: Nguyên tắc tranh tụng; Nguyên tắc suy đoán vô tội;Nguyên tắc truy tố (truy tố theo luật hay truy tố lựa chọn); Nguyên tắc xét xử tập thể và chế độ xét xử một thẩm phán…      
(2). Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng; đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm xác định rõ thẩm quyền của từng cơ quan tiến hành tố tụng, mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và giữa các cấp tố tụng nhằm bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vận hành trôi chảy, hiệu quả.
- Về Cơ quan điều tra
+ Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm và người phạm tội, bắt giữ người phạm tội; giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và yêu cầu khởi tố; tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án theo trình tự tố tụng để chứng minh tội phạm và người phạm tội trước pháp luật; thực hiện các yêu cầu và các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát.
+ Đánh giá thực tiễn việc cơ quan điều tra Công an cấp bộ rút án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra cấp tỉnh, cấp huyện lên để điều tra như vậy có phù hợp không?
+ Về cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân: đánh giá thực trạng về tổ chức, thẩm quyền của cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân; đề xuất sửa đổi, bổ sung (ví dụ: có nên mở rộng thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao?; nên tổ chức ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao như hiện nay hay cần thành lập thêm các cơ quan đại diện đặt tại các khu vực hoặc ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; vấn đề tăng cường đội ngũ cán bộ, điều tra viên của cơ quan điều tra Viện kiểm sát...)
- Về Viện kiểm sát
+ Đánh giá quy định của pháp luật TTHS hiện hành về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra; các biện pháp tố tụng, quyền, trách nhiệm luật định cho Viện kiểm sát như hiện hành có bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện trách nhiệm chống bỏ lọt, chống làm oan trong TTHS không, có bảo đảm mọi yêu cầu của Viện kiểm sát phải được CQĐT tuân thủ không?.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định để bảo đảm trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhằm tăng cường, nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát cần được quy định như thế nào để thực hiện chủ trương của Đảng về “tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”, “thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra”.
+ Đánh giá quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự: vấn đề rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát; vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Tính độc lập của Kiểm sát viên tại phiên toà (như quyền rút quyết định truy tố, thay đổi quyết định truy tố); đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung.
- Về Toà án
+ Đánh giá quy định trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa để bảo đảm Tòa án khách quan, nhưng phù hợp với điều kiện Việt Nam; những thẩm quyền nào không thuộc chức năng xét xử của Toà án(như thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Toà án, thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung, thẩm quyền tiếp tục nghị án khi ksv đã rút quyết định truy tố…); đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền của Tòa án để bảo đảm Tòa án ở đúng vị trí là cơ quan xét xử.
- Về các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, Hải quan, kiểm lâm, cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, quân đội nhân dân)
Đánh giá pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền của những chủ thể này. Đề xuất sửa đổi BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (ví dụ: nên mở rộng hay thu hẹp diện các cơ quan được tiến hành một số hoạt động điều tra (Thuế, cơ quan Quản lý thị trường…); xác định rõ phạm vi thẩm quyền của các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và mối quan hệ của cơ quan này với các cơ quan điều tra chuyên trách...
(3). Đánh giá thực tiễn các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nhiệm vụ, thẩm quyền của các chức danh tố tụng; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung 
- Đánh giá việc phân định thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Có thể giao cho Điều tra viên có quyền ra hầu hết các quyết định tố tụng hay giao theo ngạch Điều tra viên (Điều tra viên sơ cấp, trung cấp và Điều tra viên cao cấp)?.
- Đánh giá quy định của BLTTHS hiện hành về việc phân định thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; việc giao thẩm quyền, trách nhiệm tố tụng cho Kiểm sát viên (có thể giao cho Kiểm sát viên có quyền ra hầu hết các quyết định tố tụng hay giao theo ngạch Kiểm sát viên (Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao)?); về bảo đảm tính độc lập của Kiểm sát viên…
- Đánh giá quy định của BLTTHS hiện hành về việc phân định thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án Toà án. Có thể giao cho Thẩm phán có quyền ra hầu hết các quyết định tố tụng hay giao theo ngạch Thẩm phán (Thẩm phán sơ cấp, trung cấp, cao cấp và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)?.
(4) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về quyền bào chữa và người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đề xuất những vấn đề càn sửa đổi, bổ sung
- Đánh giá các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, phạm vi tham gia, thủ tục tham gia, trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa; Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Đánh giá quy định về diện người bào chữa (có nên quy định chỉ luật sư, người đại diện hợp pháp, bào chữa viên nhân dân mới được tham gia bào chữa như hiện nay hay có thể mở rộng cả những người có khả năng bào chữa đượcbị can, bị cáo nhờ bào chữa và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận cũng được tham gia bào chữa);
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư ”theo NGhị quyết 49 của Bộ Chính trị.
(5). Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung
Tập trung vào các biện pháp sau:
- Biện pháp tạm giam: cần đánh giá căn cứ, điều kiện áp dụng tạm giam; thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam, thời hạn áp dụng. Đề xuất sửa đổi BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (ví dụ: Xác định rõ căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam theo hướng: kết hợp chặt chẽ giữa căn cứ vào sự phân loại tội phạm, nhân thân người phạm tội và chính sách hình sự (tiền án, tiền sự, người chưa thành niên, người già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ), tính chất của tội phạm và yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử…Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; Nghiên cứu không tạm giam đối với một số loại tội phạm mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (những tội phạm về kinh tế, các tội phạm mà hình phạt tiền là chủ yếu; các tội phạm do vô ý và một số tội phạm khác…);Thu hẹp đối tượng, hạn chế tối đa người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam…)
- Các biện pháp thay thế biện pháp tạm giam: bảo lĩnh, đặt tiền, tài sản có giá trị để đảm bảo (ví dụ: tăng cường các biện pháp này để hạn chế việc tạm giam: Quy định trách nhiệm của người bảo lĩnh phải đặt tiền và nếu vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì số tiền đặt sẽ bị sung công quỹ Nhà nước; Xác định rõ loại tội được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; đối tượng được áp dụng; mức tiền, trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp này…).
(6).Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung.
Đánh giá quy định về khái niệm chứng cứ, nguồn chứng cứ, nguyên tắc, thẩm quyền thu thập chứng cứ…. Đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (ví dụ: nguyên tắc bảo đảm tính công khai, minh bạch, đầy đủ, toàn diện… trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ; nghiờn c?u m? rộng nguồn chứng cứ: ngoài vật chứng, lời khai, biên bản các hoạt động điều tra, xét xử và các đồ vật, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, kết luận giám định, cần bổ sung một số loại nguồn chứng cứ mới phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ) hoặc đề xuất xây dựng luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự.
 (7)Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về thời hạn tố tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung.
Đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thời hạn tiến hành tố tụng và thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn; Đề xuất sửa đổi BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
(8).Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về các thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung
- Phân tích, đánh giá về tính phù hợp, chưa phù hợp của các quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp “đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử”, coi “xét xử là hoạt động trọng tâm của hoạt động tư pháp"
- Vấn đề quy định thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
(9)  Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung
- Phân tích, đánh giá về tính phù hợp, chưa phù hợp của các quy định về căn cứ, điều kiện, thời hạn áp dụng thủ tục rút gọn;
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49 – NQ/TW về “xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định” (ví dụ: quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phải áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ án có đủ căn cứ, điều kiện do Bộ luật TTHS quy định;Quy định thủ tục xét xử một Thẩm phán; Quy định thủ tục xét xử phúc thẩm rút gọn (xét xử bút lục)…)
(10). Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội và những vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; đề xuất những vấn đề sửa đổi, bổ sung
(11) Đánh giá về kỹ thuật trình bày các quy định của BLTTHS năm 2003
Đánh giá kỹ thuật trình bày BLTTHS; tính chuẩn mực của ngôn ngữ; tính rõ ràng, tính chi tiết, tính đồng bộ; tính thống nhất và chặt chẽ về kết cấu bố cục, về cách thức thể hiện; những thuận lợi, khó khăn trong việc áp dụng các quy định của BLTTHS có nguyên nhân từ kỹ thuật trình bày BLTTHS.
(12). Đánh giá về công tác tổ chức thực hiện BLTTHS năm 2003
Đánh giá việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2003; Việc tổ chức thực hiện BLTTHS trong thực tiễn; Tổ chức bộ máy, các điều kiện vật chất của từng cơ quan, tổ chức; mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc tổ chức thực hiện các quy định của BLTTHS./.
Tìm kiếm