Xét thời điểm xoá án tích đối với bản án thứ nhất của A phạm tội trộm cắp tài sản: Ngày 20/02/2015 - thời điểm A chấp hành xong bản án và các Quyết định khác của bản án thứ nhất đến ngày 21/4/2016 - thời điểm A phạm tội lần thứ hai là chưa đủ thời hạn 02 năm để được đương nhiên xoá án tích theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên bản án thứ nhất của A được xác định là chưa được xoá án tích và căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 73 Bộ luật Hình sự (Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành) và thời điểm xét xoá án tích đối với lần phạm tội thứ nhất được tính lại theo thời điểm xoá án tích của lần phạm tội thứ hai - A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Tính đến thời điểm phạm tội mới - Trộm cắp tài sản vào ngày 19/10/2019, mặc dù A đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 15/12/2017 nhưng do A chưa đóng án phí, chưa đủ điều kiện để đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự, nên cả bản án thứ nhất và bản án thứ hai của A đều được xác định: chưa được xoá án tích; A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trị giá 150.000 đồng khi nhân thân của A đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản (Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999), chưa được xoá án tích nên hành vi nêu trên của A phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội của A trong lần phạm tội thứ ba không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm do đã áp dụng tình tiết “chưa được xoá án tích” là tình tiết định tội nên không xét làm tình tiết định khung hay tăng nặng trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự).
Tóm lại, hành vi trộm cắp tài sản trị giá 150.000 đồng vào ngày 19/10/2019 của A không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.