Theo thông tin của bạn cung cấp thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ gia đình (gồm: bà và con trai của bà bạn) nên xác định đây là tài sản thuộc sở hữu chung của hai người được xác lập theo quy định tại khoản 2 Điều 690 Bộ luật Dân sự năm 1995 (Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2005). Do đây là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình nên hình thức sở hữu là sở hữu chung hợp nhất giữa bà của bạn và con trai của bà bạn, chưa có việc phân chia quyền sử dụng đất (phần diện tích của mỗi người được sử dụng) nên bà của bạn và con trai của bà bạn đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với thửa đất theo quy định tại khoản 2 Điều 210 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 "Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký... phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ...". Như vậy, cần phải xác định cụ thể trong các trường hợp sau:
1. Trường hợp bà của bạn thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho người cháu (người cháu đã làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) khi con trai của bà bạn chưa thành niên: Trường hợp này bà bạn không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, phải xác định bà của bạn trong quá trình thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký vào các giấy tờ mà người cháu yêu cầu nên bà của bạn phải chứng minh việc có hay không có người cháu đã cố ý lừa dối bà của bạn để ký các giấy tờ có nội dung khác với thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu là chuyển nhượng 1/3 hay 2/3 diện tích đất trên. Từ đó xác định giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vô hiệu do bị lừa dối theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Trường hợp bà của bạn thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bán đất) trên cho người cháu (người cháu đã làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) khi đó con trai bà của bạn đã thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Trường hợp này, việc bà của bạn bán đất (định đoạt tài sản chung) không có thỏa thuận của con trai bà của bạn và các thành viên trong gia đình thì việc định đoạt tài sản chung của bà là hành vi trái pháp luật. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà của bạn và người cháu (người nhận chuyển nhượng) là hợp đồng vô hiệu toàn phần theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015, cho nên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà của bạn và người cháu (người nhận chuyển nhượng) và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người cháu (người nhận chuyển nhượng). Tuy nhiên, phải xác định: (1) Trường hợp còn thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015 (02 năm) thì có quyền yêu cầu đòi lại diện diện tích đất đã chuyển nhượng; (2) Trường hợp không còn thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì không có quyền đòi lại diện tích đất đã chuyển nhượng.
Câu trả lời có tính chất tham khảo.