CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

The Supreme People’s Procuracy of Viet Nam

Hỏi đáp trực tuyến

Xác định tư cách tham gia tố tụng

Người gửi:

Nguyễn Văn A nợ Trần Văn B số tiền 20 triệu đồng. Ngày 19/6/2023, B cùng với 02 thanh niên khác đến nhà A đòi tiền nhưng A không có tiền trả, B thấy A có chiếc xe máy hiệu Sirius biển số 78C1-126.23 đang để ở nhà (xe do A đứng tên đăng ký) nên nhóm của B đã có hành vi dùng vũ lực để lấy chiếc xe máy nêu trên. Trong quá trình nhóm của B dùng vũ lực với A để lấy xe thì có bà Nguyễn Thị C và Nguyễn Văn D là mẹ và em trai của A, ở chung nhà với A đã lao vào ngăn cản nhóm của B nhằm giữ lại chiếc xe, B có dùng tay tát bà C một cái vào mặt. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố B và đồng phạm về tội Cướp tài sản. Thương tích của A, bà C, D đều là thương tích nhẹ, tất cả đều từ chối giám định, không có đơn yêu cầu xử lý. Xin hỏi, trong vụ án Cướp tài sản này, tư cách tham gia tố tụng của bà C và D là người bị hại hay người làm chứng?

Câu trả lời

1. Theo nội dung tình huống, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Cướp tài sản, do vậy, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án Cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (BLHS).

2. Căn cứ Điều 168 BLHS thì hành vi phạm tội Cướp tài sản xâm phạm thể chất, tinh thần và tài sản của bị hại. Trong trường hợp nêu trên, C và D không có quan hệ đối với tài sản của A, do vậy, không có căn cứ xác định C và D là bị hại trong vụ án Cướp tài sản.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) (BLTTHS) thì có căn cứ xác định C và D là người làm chứng trong vụ án cướp tài sản nếu C và D không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 66 BLTTHS.

Câu trả lời có tính chất tham khảo.

BBT