Thời hạn đi khai sinh được quy định tại Điều 15 Luật Hộ tịch năm 2014 như sau: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.” Như vậy, khi cháu C đến tuổi đi học là quá thời hạn đi khai sinh. Do đó, chị A anh B cần tiến hành thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn theo Điều 43 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định.
Khoản 1 Điều 44 Nghị định 158/2005/NĐ-CP quy định Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh theo quy định tại Điều 13 của Nghị định này thực hiện việc đăng ký khai sinh quá hạn. Theo đó, UBND cấp xã nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đang ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ thì UBND cấp xã nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha thì UBND cấp xã nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Chị A anh B phải nộp các giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định 158/NĐ- CP (được sửa đổi bổ sung theo Nghị định số 06/2012/NĐ- CP) là: Tờ khai, Giấy chứng sinh (theo mẫu); Giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh. Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho người đi khai sinh một bản chính Giấy khai sinh.