Bố của bạn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/4/2006. Trong câu hỏi bạn không nêu rõ đất khi chuyển nhượng đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa; đồng thời cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của gia đình bạn chưa được thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 124, khoản 2 Điều 689 Bộ luật Dân sự năm 2005 (hợp đồng phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật).
Năm 2021, một người con của người bán khởi kiện bố bạn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do người mẹ không ký vào biên bản thống nhất họp gia đình có nội dung chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bố bạn.
Với những thông tin bạn đưa ra có thể xác định mặc dù người mẹ không ký vào biên bản họp gia đình nhưng thông qua người làm chứng và việc cả gia đình người bán đã chuyển đi nơi khác sinh sống, tự nguyện giao đất cho gia đình bạn, gia đình bạn đã sinh sống ổn định trên đất; người mẹ cho đến khi chết không có khiếu nại, tranh chấp gì cho thấy người mẹ đã đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bố của bạn.
Trường hợp đất khi chuyển nhượng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hình thức của hợp đồng không đúng quy định của pháp luật thì căn cứ các quy định tại các tiểu mục a và b Mục 2.3 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để xem xét việc công nhận hoặc tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trường hợp chỉ có hình thức của hợp đồng không đúng quy định của pháp luật thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của gia đình bạn vẫn được công nhận do các bên đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ (bên chuyển nhượng đã nhận đủ tiền và giao đất; bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền và nhận đất) theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Câu trả lời có tính chất tham khảo.