VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Đề cương tuyên truyền 45 năm
ngành Kiểm sát nhân dân
I. Hoàn cảnh ra đời của Viện kiểm sát
nhân dân
Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân
xuất phát từ nhu cầu khách quan của việc xây dựng bộ máy Nhà nước xã hội chủ
nghĩa và yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của
nhân dân ta kết thúc thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền
Nam vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Trước tình hình mới,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược:
"ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục
đấu tranh thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trong
cả nước”.
Cơ quan công tố Nhà nước Việt Nam
kiểu mới được Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập từ 1945 sau khi thành lập Nhà nước
Việt Nam dân chủ công hoà và hệ thống Viện công tố thành lập năm 1958, tiền thân
của Viện kiểm sát nhân dân với chức năng chủ yếu của nó là đưa người phạm tội ra
toà xét xử (và thực hiện một số hoạt động giám sát việc điều tra, xét xử, giam
giữ, cải tạo). Là bộ phận của hệ thống cơ quan chấp hành (cơ quan hành chính) tổ
chức và hoạt động của Viện Công tố theo nguyên tắc song trùng trực thuộc đến
thời điểm này đã tỏ ra không còn thích hợp với sự phát triển cách mạng và không
thể đảm bảo những yêu cầu mới của việc thiết lập, củng cố nền pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Trước tình hình đó, hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân đã ra đời. Tờ trình về Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960 đã nêu rõ: "Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp
luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục
đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước cũng như giữa các
ngành hoạt động Nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc
chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó
khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất."
Hiến pháp năm 1959 (được
Quốc hội nước ta thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959) lần đầu tiên đã quy định
về chế định Viện kiểm sát nhân dân. Ngày
15-7-1960 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá II, kỳ họp thứ nhất đã
thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Ngày 26-7-1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Lệnh số 20-L/CTN công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong hệ
thống bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Kế thừa và phát huy những thành quả
và kinh nghiệm hoạt động của Viện công tố trong cách mạng dân tộc, dân chủ,
trong 45 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự giám sát thường xuyên
của Quốc hội, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ở
Trung ương và địa phương, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, ngành Kiểm sát nhân
dân đã không ngừng phấn đấu và trưởng thành trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, phục
vụ việc phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân.
Bằng những kết quả của các lĩnh vực công tác kiểm sát, Viện kiểm sát các cấp đã
góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vào thắng
lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống
nhất nước nhà cũng như vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta.
II. Tổ chức và Hoạt động của viện
Kiểm sát nhân dân qua các thời kỳ
1. Thời kỳ từ 1960 đến 1975
Sau khi được thành lập, ngành Kiểm sát nhân dân vừa
phải lo xây dựng hệ thống tổ chức, vừa triển khai hoạt động phục vụ các nhiệm vụ
do Đảng và Nhà nước đề ra. Với phương châm vừa chiến đấu vừa xây dựng, ngành
Kiểm sát đã coi trọng việc khai thác và vận dụng những kinh nghiệm của Viện công
tố trước đây, tham khảo kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa anh em, từng bước
xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy để triển khai nhiệm vụ và bồi dưỡng đào tạo đội
ngũ cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân.
Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ III và Nghị quyết 68/NQ-TW ngày 1/2/1963 của Bộ Chính trị về công tác kiểm
sát, được sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng, Viện kiểm sát các cấp đã
tích cực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình nhằm phục vụ các mục tiêu: bảo
đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm các quyền tự do dân
chủ của nhân dân, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với nhiệm vụ góp phần bảo vệ an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội, ngành Kiểm sát đã tập trung vào việc đấu tranh chống các
tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và các loại tội phạm nguy hiểm khác. Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và
Viện kiểm sát quân sự các cấp phối hợp với Cơ quan điều tra và Toà án trấn áp
kịp thời, xử lý nghiêm khắc đối với bọn gián điệp, biệt kích do đế quốc Mỹ và
ngụy quyền miền Nam tung ra miền Bắc và bọn gián điệp do thực dân Pháp cài lại;
trừng trị bọn hoạt động phỉ, gây bạo loạn ở một số vùng miền núi phía Bắc và
những tên phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng. Đã đưa ra truy tố,
xét xử các vụ án về an ninh quốc gia điển hình như: Vụ án Nguyễn Minh Thông ở Hà
Nội; vụ án Lương Huy Hân đội lốt hoạt động tôn giáo tuyên truyền chống phá cách
mạng ở Bùi Chu – Phát Diệm, vụ trấn áp bọn hoạt động phỉ ở Đồng Văn...
Quán triệt các nghị quyết của Trung ương về các
cuộc vận động 3 xây, 3 chống trong các cơ sở công nghiệp quốc doanh, cải tiến
quản lý hợp tác xã nông nghiệp, thực hiện dân chủ ở miền núi, hoạt động kiểm sát
bước đầu hướng vào lĩnh vực quản lý kinh tế ở một số xí nghiệp, nông trường quốc
doanh. Cùng với việc xử lý một số trường hợp cố ý làm trái các chế độ chính sách
của Nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đề xuất và được Trung ương đồng
ý về một số biện pháp tăng cường công tác quản lý sản xuất nông nghiệp của các
hợp tác xã. Nói chung, hoạt động của ngành Kiểm sát lúc này đã chú ý bám sát hai
vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm là việc bảo vệ quyền dân chủ ở nông thôn và
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống tham ô, lãng phí của công. Qua kết quả
kiểm sát tại chỗ hàng trăm hợp tác xã nông nghiệp, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã kiến nghị với Đảng và Nhà nước ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã nông
nghiệp và đã cùng Ban Nông nghiệp Trung ương xây dựng văn bản này.
Từ năm 1965 đến năm 1972 miền Bắc phải trực tiếp
đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa sản xuất, vừa chiến
đấu và sẵn sàng chiến đấu, vừa phải ra sức chi viện sức người, sức của cho cách
mạng miền Nam, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn của cả nước.
Trước tình hình, nhiệm vụ mới, ngành
Kiểm sát đã kịp thời tập trung phục vụ các yêu cầu của thời chiến trên cả 2 mặt
trận sản xuất và chiến đấu, nhằm bảo đảm sức chiến đấu của quân đội và đời sống
của nhân dân. Quán triệt quan điểm: khẩn trương, linh hoạt, gọn nhẹ trong tổ
chức và hoạt động, bảo đảm phát huy hiệu quả hoạt động của ngành trong tình hình
mới.
Viện kiểm sát các cấp đã tập trung chỉ đạo, phục vụ
các nhiệm vụ trung tâm là bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các vật tư
quốc phòng, hàng hoá do các nước anh em và bè bạn viện trợ, đấu tranh chống các
hành vi trộm cắp, tham ô, phân phối, sử dụng sai chính sách, chế độ v.v... nhất
là ở các khâu giao nhận và vận chuyển. Nhiều Viện kiểm sát địa phương đã tích
cực chủ động kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan quản lý, phân
phối các vật tư, thiết bị, lương thực, thực phẩm ... phát hiện và xử lý các vụ
trộm cắp, tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, lợi dụng khi địch bắn phá, khai tăng
số thiệt hại để rút tài sản của Nhà nước (nhiều trường hợp sau khi địch bắn phá,
Kiểm sát viên đã có mặt ở hiện trường để giám sát việc xác định thiệt hại về tài
sản, phòng ngừa việc phạm pháp) hoặc lợi dụng chức vụ để cố ý làm trái chế độ,
chính sách của Nhà nước. Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã đưa ra truy tố, xét
xử một số vụ án điển hình nhằm kịp thời giáo dục pháp luật, phát động quần chúng
bảo vệ các hàng hoá, vật tư để ở ngoài trời, đấu tranh xoá bỏ các "tụ điểm"
mua bán hàng lấy cắp của Nhà nước ở dọc các đường sông và đường bộ. Đã trừng trị
nghiêm khắc các hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, vật tư quốc phòng,
quân trang, lương thực, các vụ đầu cơ, buôn lậu, làm giả tem phiếu, móc ngoặc
trong việc phân phối hàng hoá, vật tư sai chế độ chính sách làm ảnh hưởng đến
sức chiến đấu của quân đội và đời sống của nhân dân. Qua việc thực hành quyền
công tố các vụ án tại phiên toà, Viện kiểm sát đã vạch trần hành vi phạm tội của
các bị cáo, đề xuất mức xử lý nghiêm minh, đồng thời kiến nghị với các cơ quan
hữu quan khắc phục thiếu sót, khuyết điểm trong công tác quản lý, có tác dụng
phòng ngừa cao.
Qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hình
sự, Viện kiểm sát các cấp cũng chú trọng việc minh oan cho những người bị oan
như tiến hành minh oan cho anh Nguyễn Văn phổ bị quy kết là gián điệp oan; minh
oan cho một số người trong vụ án Nguyễn Thị Là và vụ án Võ An Khang...
Viện kiểm sát các cấp cũng đã tích cực tham gia xét
duyệt các đối tượng cần tập trung cải tạo ở những địa bàn xung yếu; kiến nghị
với Nhà nước cho ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân.
Sau khi có nghị quyết 228 của Bộ Chính trị về tăng
cường quản lý kinh tế, đấu tranh chống tiêu cực, làm ăn phi pháp, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã kịp thời chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Viện kiểm
sát quân sự có kế hoạch tập trung lực lượng để tiến hành công tác kiểm sát với
phương châm kết hợp chặt chẽ giữa chống với phòng, chống với xây, lấy xây làm
mục đích. Đồng thời đã chú trọng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
ban hành các văn bản pháp quy của các cơ quan Nhà nước cùng cấp. Viện kiểm sát
đã kịp thời kiến nghị, yêu cầu cơ quan hữu quan sửa chữa, khắc phục các văn bản
có vi phạm pháp luật.
Cùng với nhiệm vụ bảo vệ, xử lý kịp thời các hành
vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Viện kiểm sát các cấp đã thường xuyên kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các chính sách hậu phương quân
đội; phục vụ có kết quả các đợt huy động làm nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động
thời chiến phục vụ chiến đấu; kịp thời giải quyết các vụ xâm phạm trật tự trị an
ở các vùng có chiến sự, các vụ hình sự, dân sự, ly hôn có quan hệ đến quân nhân
tại ngũ và cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc.
Năm 1971 ngành Kiểm sát đã tiến hành tổng kết 10
năm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Trong thời kỳ này, ngành Kiểm sát cũng
liên tiếp tổ chức các hội nghị chuyên đề về từng khâu nghiệp vụ, về đấu tranh
chống từng loại tội phạm, tổng kết công tác kiểm sát phục vụ chính sách dân tộc
của Đảng, tổ chức rút kinh nghiệm về một số biện pháp nghiệp vụ thể hiện phương
châm vừa chống vừa xây, lấy xây làm mục đích (xây dựng điểm tiên tiến tuân theo
pháp luật, phối hợp với cơ quan công an trong việc phân loại, xử lý tội phạm
v.v...). Đã tích cực chủ động mở trường đào tạo cán bộ kiểm sát theo hệ chính
quy, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ trong ngành về kiến thức pháp lý và
nghiệp vụ công tác kiểm sát, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ cho ngành.
Để chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam, vào cuối
năm 1972 Ban công tác miền Nam thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành
lập, với nhiệm vụ xây dựng đề án về tổ chức cán bộ, về phương thức hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân ở miền Nam và cử một số cán bộ đi vào miền Nam công tác.
Viện kiểm sát tối cao đã cùng với hai ngành Toà án và Công an thống nhất chủ
trương xây dựng đường lối công tác tư pháp ở vùng mới giải phóng và đào tạo đội
ngũ cán bộ cho miền Nam.
Năm 1975, đất nước ta được hoàn toàn giải phóng,
mở ra thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngành Kiểm sát đã kịp thời điều
động hàng trăm cán bộ thuộc Viện kiểm sát các cấp cùng với cán bộ ngành Toà án
tiếp quản các cơ sở hoạt động tư pháp của ngụy quyền cũ, khẩn trương xây dựng hệ
thống các cơ quan Viện kiểm sát ở các tỉnh phía Nam đáp ứng yêu cầu bảo vệ các
thành quả của cách mạng và giữ vững trật tự trị an ở vùng mới giải phóng.
Trong 15 năm (1960 – 1975), ngành Kiểm sát đã đạt
được những kết quả to lớn trong việc thực hiện chức năng kiểm sát, phục vụ tích
cực hai nhiệm vụ chiến lược: ở miền Bắc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời, là hậu phương vững chắc cho miền Nam;
ở miền Nam, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
nước nhà. Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện được các nhiệm vụ trọng tâm là đấu
tranh chống lại bọn phản cách mạng, bảo vệ các quyền dân chủ của công dân, bảo
vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và chế độ quản lý của Nhà nước.
Công tác kiểm sát giai đoạn này đã thể hiện rõ tư
tưởng của đồng chí Hoàng Quốc Việt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đầu tiên: Công tác kiểm sát thực chất là công tác chính trị, công tác kiểm sát
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị.
2. Thời kỳ từ 1975 đến 1986
Đây là thời kỳ miền Nam nước ta được hoàn toàn giải
phóng, đất nước đã thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng vẫn còn
phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và
kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Ba mươi năm chiến
tranh và những tàn dư của chế độ cũ đã để lại trên đất nước ta nhiều hậu quả
trầm trọng về kinh tế, xã hội, sản xuất thấp kém, đời sống khó khăn, tệ nạn xã
hội nặng nề. Mặt khác, bọn phản động trong nước cấu kết với các thế lực thù địch
bên ngoài điên cuồng chống phá cách mạng. Việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế
còn nhiều lỏng lẻo, sơ hở. Những nhân tố tiêu cực trên đây làm cho tình hình tội
phạm càng thêm phức tạp và nghiêm trọng. Tình hình đó đặt ra cho cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm những yêu cầu mới cần phải được giải quyết để bảo vệ các
lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đã
đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (năm 1982) đã cụ thể
hoá đường lối chung, và xác định các mục tiêu kinh tế - xã hội trong những năm
80 nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong giai
đoạn mới là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chuyển sang thời kỳ mới, ngành Kiểm sát có bước
phát triển mới cả về tổ chức và hoạt động. Hiến pháp mới (1980) xác định nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động quản lý Nhà nước. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (1981) một lần nữa đã
khẳng định vị trí, vai trò, trách nhiệm của ngành Kiểm sát trong việc bảo đảm
pháp chế thống nhất trong cả nước.
Trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân mới, chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát đã được
xác định rõ hơn.
Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh phía
Nam tuy mới được xây dựng nhưng đã cố gắng phục vụ đắc lực các chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước ở vùng mới giải phóng. Đã cùng với các cơ quan chức
năng trấn áp kịp thời các đối tượng phản cách mạng, gián điệp do Mỹ - ngụy cài
lại, các đối tượng phản động lợi dụng hoạt động tôn giáo chống phá cách mạng,
trừng trị nghiêm khắc những kẻ cầm đầu các tổ chức vũ trang bạo loạn, xúi giục,
lừa đảo người trốn đi nước ngoài, những kẻ lưu manh, côn đồ, giết người, cướp
của ... Vận dụng đúng đắn đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc
xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, đưa đi tập trung cải tạo những tên ngụy quân,
ngụy quyền có tội ác với nhân dân, tham gia giải quyết các tệ nạn xã hội cũ để
giữ vững trật tự, trị an, củng cố chính quyền cách mạng. Đồng thời, đã tích cực
phục vụ chủ trương các chính sách của Đảng và Nhà nước như chính sách thống nhất
tiền tệ, chính sách vận động nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể… Qua hoạt
động thực tiễn, đội ngũ cán bộ kiểm sát ở miền Nam đã có bước trưởng thành nhanh
chóng.
Trên phạm vi cả nước, Viện kiểm sát
nhân dân đã chú trọng hướng công tác kiểm sát phục vụ các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội do Đảng và Nhà nước đề ra như nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất lương thực,
sản xuất
hàng tiêu dùng, thu mua sản
phẩm, cải tiến phân phối lưu thông, bảo vệ tài sản và chế độ quản lý kinh tế xã
hội chủ nghĩa; về an ninh quốc phòng đã góp phần phục vụ tích cực cuộc chiến đấu
bảo vệ biên giới và trấn áp phản cách mạng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội, bảo vệ các quyền dân chủ của nhân dân.
Viện kiểm sát các cấp đã chú ý nắm
vững đường lối quan điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ việc lập lại trật tự
quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhất là trong lĩnh vực phân phối lưu thông,
đấu tranh chống các hoạt động vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực
sản xuất,
kinh doanh. Kết hợp đấu tranh bảo vệ nguyên tắc của pháp luật với đấu tranh khắc
phục những quan điểm sai trái. Đã kiên quyết xử lý đối với các hành vi xâm phạm
tài sản xã hội chủ nghĩa như tham ô, trộm cắp tài sản Nhà nước, cố ý làm trái
chế độ, chính sách của Nhà nước, nhận hối lộ v.v... Trừng trị nghiêm khắc các
đối tượng đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép...
Thông qua kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với một số ngành trong những lĩnh vực quản lý kinh tế trọng điểm
và một số đơn vị sản
xuất
kinh doanh, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao đã phát hiện và báo cáo với Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về một số sơ hở trong các chủ trương, biện pháp quản lý tạo điều kiện
cho những đối tượng vụ lợi thực hiện hành vi làm trái chính sách, chế độ mưu lợi
ích riêng như vấn đề thanh lý tài sản sau chiến tranh, vấn đề chủ động, linh
hoạt trong sản xuất
kinh doanh, vấn đề kết hợp 3
lợi ích, vấn đề chênh lệch giá trong thương nghiệp, chủ trương mở rộng quyền cho
địa phương trong hoạt động xuất nhập khẩu ..., giúp Trung ương xem xét để có
những bổ sung, chấn chỉnh kịp thời.
Để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ
của công dân, Viện kiểm sát các cấp đã tăng cường hoạt động kiểm sát trong lĩnh
vực điều tra tội phạm, trong việc thực hiện chính sách bắt, giam, giữ và tập
trung cải tạo. Đồng thời, tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo của cán bộ và nhân dân trong các quan
hệ lao động, dân sự và kiểm tra hành chính của cơ quan Công an, nhất là đối với
đơn khiếu nại về việc bị tập trung cải tạo hoặc cưỡng bức lao động không đúng
chính sách và pháp luật, kịp thời kiến nghị với cơ quan hữu quan có biện pháp
cải thiện đời sống của những người bị giam giữ và cải tạo.
Về vận dụng đường lối đấu tranh chống
tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân
dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) thống nhất về đường lối xử lý đối
với một số loại tội mới. Đã truy tố, đưa ra xét xử nghiêm khắc đối với những kẻ
phản bội Tổ quốc, hoạt động gián điệp, gây bạo loạn hoặc lợi dụng hoạt động tôn
giáo để chống đối chế độ, những kẻ lưu manh chuyên nghiệp, côn đồ hung hãn,
những cán bộ thoái hoá, biến chất phạm tội. Một số vụ án xâm phạm an ninh quốc
gia điển hình đã được đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh như vụ phản
cách mạng ở nhà thờ Vĩnh Sơn; vụ Lê Quốc Tuý, Mai Văn Hạnh... Trong việc giải
quyết các vụ án lớn, nhất là các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, các Bản cáo
trạng và Luận tội của Viện kiểm sát đã vạch trần trước dư luận trong và ngoài
nước những âm mưu và hành động phá hoại nhiều mặt chống Nhà nước và nhân dân ta.
Đồng thời, rút ra những bài học cảnh giác trước âm mưu của kẻ địch.
Nhiều Viện kiểm sát địa phương đã
chủ động đề xuất với cấp uỷ mở hội nghị kiểm điểm việc chấp hành pháp luật, tuân
thủ pháp chế ở địa phương. Qua đó nâng cao ý thức pháp luật, bảo vệ pháp chế của
cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành.
Về xây dựng ngành, trên cơ sở Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, ngành Kiểm sát đã xây dựng Quy chế ngạch
kiểm sát viên, trình Hội đồng Nhà nước phê duyệt. Đồng thời, xây dựng các điều
lệ công tác, chế độ trách nhiệm, lề lối làm việc của mỗi cấp kiểm sát, các quy
chế về trình tự hoạt động của từng phương thức kiểm sát làm cơ sở đưa hoạt động
kiểm sát đi dần vào nề nếp và bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất trong
ngành. Quan hệ giữa Viện kiểm sát với các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ
quan hữu quan được chú ý. Việc phối hợp 3 ngành Kiểm sát, Công an, Toà án cùng
kiểm tra công tác giải quyết án hình sự ở một số tỉnh, thành phố lớn trong thời
kỳ này đã đưa lại kết quả tích cực.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ được
đặc biệt quan tâm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành
được thực hiện ở tất cả 3 cấp với những hình thức thích hợp: tập trung tại
trường, tại chức, tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn trong nước và ngoài nước.
Công tác tổng kết nghiệp vụ, xây dựng
lý luận khoa học công tác kiểm sát thời kỳ này được chú ý. Trên cơ sở những luận
điểm của Đảng ta về chuyên chính vô sản, về pháp chế xã hội chủ nghĩa và công
tác kiểm sát kết hợp với tổng kết công tác thực tiễn và tổng kết lý luận, ngành
Kiểm sát đã bước đầu xây dựng được hệ thống giáo trình môn học công tác kiểm sát
tương đối hoàn chỉnh, hoàn thành việc biên soạn cuốn "Sổ tay của kiểm sát
viên". Quan hệ hợp tác tương trợ giữa Viện kiểm sát Việt Nam với Viện kiểm
sát các nước xã hội chủ nghĩa anh em từng bước được mở rộng.
3. Thời kỳ từ năm 1986 đến nay
Quán triệt quan điểm đổi mới của
Đảng được đề cập trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết Đại hội lần thứ VI,
VII, VIII, IX và các Nghị quyết khác của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội,
ngành Kiểm sát đã có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và đã đạt được những kết quả tích cực.
Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (kiểm sát chung) những năm 1986 –
2002 đã luôn luôn bám sát các Nghị quyết của Đảng, những chủ trương lớn của Nhà
nước về phát triển kinh tế- xã hội.
Ngành kiểm sát thực hiện công tác
kiểm sát theo kế hoạch thống nhất, tập trung vào những ngành kinh tế trọng điểm,
có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, đã có nhiều kiến nghị với Chính
phủ và kháng nghị đối với các Bộ ngành ở Trung ương về củng số pháp chế trong
quản lý Nhà nước ở các ngành như ngân hàng, quản lý ngoại tệ và hàng viện trợ
(năm 1990 - 1991), lĩnh vực xây dựng cơ bản ở các ngành kinh tế trọng điểm (năm
1993), lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai (năm 1994), quản lý Nhà nước trong
ngành Hải quan (năm 1995), lĩnh vực chấp hành pháp luật về thuế và thu ngân sách
năm (năm 1996)... góp phần vào công tác củng cố pháp chế và trật tự pháp luật
trong các lĩnh vực nói trên, đóng góp tích cực vào việc quản lý kinh tế, văn
hoá, xã hội theo pháp luật.
Ngành Kiểm sát đã tổ chức nhiều Hội nghị pháp chế ở
Trung ương và địa phương với các đơn vị được kiểm sát nhằm phòng ngừa vi phạm,
phục vụ cho việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Hàng năm, ngành Kiểm sát đã
kháng nghị, kiến nghị yêu cầu thu hồi cho Nhà nước hàng trăm tỷ đồng, yêu cầu
khởi tố nhiều vụ án hình sự, dân sự, yêu cầu xử lý nghiêm minh những người vi
phạm pháp luật nhằm khôi phục trật tự pháp luật trên các lĩnh vực được kiểm sát.
Nhiều Viện kiểm sát tổ chức tốt việc nắm thông tin vi phạm pháp luật để xác định
đúng đối tượng cần kiểm sát, vận dụng đồng bộ các phương thức kiểm sát, tăng
cường phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm tra nên các cuộc kiểm sát đã đạt
chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.
Qua kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật, hàng
năm, ngành Kiểm sát đã phát hiện và kháng nghị, kiến nghị khắc phục hàng nghìn
văn bản có vi phạm pháp luật, trong đó có nhiều văn bản của các Bộ, ngành ở
Trung ương. Nhiều Viện kiểm sát địa phương đã tổng hợp vi phạm, kiến nghị với
chính quyền địa phương mở Hội nghị rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng công
tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Năm 2002 đánh dấu bước điều chỉnh
quan trọng về chức năng hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu của công cuộc
cải cách tư pháp. Để thực hiện cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành
chính, kinh tế, xã hội nữa.
Thực hiện các quy định của Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và các văn bản pháp luật có liên quan đến
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mới được ban hành như Pháp lệnh
kiểm sát viên năm 2002, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh tổ chức điều
tra hình sự năm 2004, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Nghị quyết số 388 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, tiếp tục thực hiện các yêu cầu của
cải cách tư pháp theo tinh thần các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng như Chỉ thị số
53-CT/TW ngày 21/3/2000, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính
trị... các lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã có những tiến
bộ đáng kể, nhất là công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong lĩnh vực hình sự.
Chấp hành nghiêm chỉnh sự điều chỉnh chức năng theo
yêu cầu của cải cách tư pháp, từ đầu năm 2002 ngành Kiểm sát đã giải thể các đơn
vị làm công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, hành
chính... và phòng điều tra tại các Viện kiểm sát cấp tỉnh, điều động cán bộ
trong các đơn vị này sang các bộ phận công tác khác, kiện toàn tổ chức Cục điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo mô hình tổ chức mới.
Thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, ngành Kiểm sát
đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật, kịp thời phát hiện, xử lý
nghiêm minh các loại tội phạm, nhất là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các
tội về tham nhũng, buôn lậu, ma tuý và các loại tội phạm có tổ chức; đồng thời
chú trọng công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp, kịp thời phát hiện các vi
phạm trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, xét xử để kháng nghị, kiến
nghị, yêu cầu khắc phục, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội và các hoạt động tố tụng tuân theo đúng quy định của pháp
luật.
Trong những năm gần đây, số lượng vụ
án và bị can Viện kiểm sát thụ lý để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử có xu hướng tăng hơn thời kỳ trước (năm 1995 thụ lý kiểm
sát điều tra
45.476 vụ; năm 2000 thụ lý 46.113 vụ;
năm 2004 thụ lý 51.580 vụ). Những năm qua,
Viện kiểm sát đã phối hợp với cơ quan
điều tra và Toà án đưa ra truy tố, xét xử kịp thời nhiều vụ án xâm phạm an ninh
quốc gia, các vụ án về tham nhũng, buôn lậu, ma tuý, các loại tội phạm có tổ
chức… phục vụ có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Về các vụ án xâm
phạm an ninh quốc gia, điển hình là vụ án Hoàng Cơ Minh phạm tội hoạt động nhằm
lật đổ chính quyền nhân dân xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh; vụ án phá hoại chính
sách đoàn kết ở Thừa Thiên – Huế; các vụ phá hoại chính sách đoàn kết; phá rối
an ninh và tổ chức trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân xảy ra ở
một số tỉnh Tây Nguyên…
Về các vụ án kinh tế, điển hình là Vụ
Epco – Minh Phụng và vụ Tân Trường Sanh xảy ra ở thành phố Hồ Chí Minh, vụ Phạm
Minh Thông phạm tội tham ô, cố ý làm trái… ở Đà Nẵng; vụ Mai Văn Huy tham ô, cố
ý làm trái… và buôn lậu ở Đồng Tháp; vụ án tham ô, cố ý làm trái…, đưa và nhận
hối lộ xảy ra ở Mường Tè, Lai Châu; vụ “Thuỷ cung Thăng Long” và vụ Lã
Thị Kim Oanh phạm tội tham ô, cố ý làm trái… xảy ra ở Hà Nội …
Trong lĩnh vực trật tự xã hội, Viện
kiểm sát đã phối hợp với cơ quan điều tra và Toà án đấu tranh quyết liệt với
những tội phạm có tính chất băng, nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”
như vụ “Khánh Trắng”, vụ “Phúc Bồ” ở Hà Nội, vụ Trương Văn Cam ở
thành phố Hồ Chí Minh. Về các vụ án ma tuý, đã đưa ra truy tố, xét xử nhiều vụ
án ma tuý đặc biệt nghiêm trọng có tính chất xuyên quốc gia như vụ Vũ Xuân
Trường, vụ Nguyễn Đức Lượng, vụ Nguyễn Đức Minh, vụ Nguyễn Minh Tòng v.v…
Thông qua việc điều tra, truy tố và xét xử một số
vụ án tham nhũng lớn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã đề xuất với các cơ quan
Đảng, Nhà nước về một số cơ chế, chính sách phòng ngừa và đấu tranh chống các
tội phạm về tham nhũng, trong đó có việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật,
khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước,
tăng cường công tác kiểm tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ việc tham
nhũng.
Năm 2004, qua việc thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra đối với một số vụ án xảy ra trong lĩnh vực đầu tư – xây dựng cơ
bản, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các
Bộ, ngành, địa phương có liên quan khắc phục vi phạm và xem xét trách nhiệm
trong quản lý, nhất là đối với các công trình có vốn đầu tư lớn ở ngành kinh tế
đặc thù như Dầu khí, Bưu chính viễn thông, Điện lực...
Trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, Viện kiểm sát nhân dân cũng đã chú trọng đến việc chống oan, sai, chủ
động minh oan cho những người bị oan. Điển hình là việc minh oan của Viện kiểm
sát trong các vụ án như vụ KC50, vụ Thân Trung Hiếu, vụ Lữ Anh Dồi, vụ “Đầm
Dơi”, vụ Huỳnh Văn Nam... và gần đây là các vụ Phạm Thị út, Trần Thị Thuận.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã có nhiều biện
pháp đổi mới công tác quản lý, xử lý thông tin tội phạm nên đã hạn chế được tình
trạng bỏ lọt tội phạm. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
được tiến hành ngay từ đầu và trong suốt quá trình điều tra. Do có những đổi mới
mạnh mẽ về tổ chức và phương thức hoạt động, chất lượng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của Viện kiểm sát các cấp
được nâng lên. Tỷ lệ án khởi tố đưa ra truy tố ngày càng tăng. Số người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam không đúng sau đó phải trả tự do, số vụ án đình chỉ điều tra
do bị can không phạm tội và số người bị truy tố Toà án tuyên không phạm tội ngày
càng giảm. Tiến độ giải quyết án được đẩy nhanh. Phần lớn các vụ án được giải
quyết trong thời gian luật định. Số án tồn đọng đã được giải quyết một cách cơ
bản. Nhiều vụ án lớn, phức tạp đã được điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, đáp
ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên tại phiên toà, nhất là chất lượng
tranh luận, luận tội, làm cơ sở để Toà án ra những phán quyết chính xác, công
bằng. Các bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật phát hiện được đều
được Viện kiểm sát các cấp kháng nghị, kiến nghị để yêu cầu khắc phục.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đã tiếp nhận và giải quyết nhiều đơn tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm
quyền. Hàng năm, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thụ lý
điều tra hàng chục vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ
thuộc các cơ quan tư pháp. Các vụ án hình sự do Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao điều tra được các đơn vị chức năng thuộc Viện kiểm sát nhân dân
tối cao kiểm sát chặt chẽ, bảo đảm việc điều tra, xử lý tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật.
Trong công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, Viện kiểm sát các cấp đã chú
trọng kiểm sát thường kỳ và bất thường các nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại
giam, quyết định trả tự do cho nhiếu trường hợp bị giam, giữ không có căn cứ và
trái pháp luật và ban hành nhiều kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi
phạm, góp phần bảo đảm việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ trì phối hợp
với các cơ quan có liên quan xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch số
01/2004/TTLT-VKSTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 hướng dẫn thi hành một
số quy định của Nghị quyết số 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện
thống nhất trong các ngành tư pháp; tổ chức quán triệt Nghị quyết này tới toàn
thể cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành để nhận thức rõ trách nhiệm, tránh việc
làm oan người vô tội, nhưng cũng khắc phục khuynh hướng vì sợ phải bồi thường mà
do dự, không dám đấu tranh dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Viện kiểm sát các cấp đã
phối hợp với các cơ quan hữu quan tổng rà soát, chủ động nắm số vụ có dấu hiệu
bị oan từ các năm trước theo quy định của Nghị quyết số 388 để xác minh và giải
quyết việc bồi thường. Đến nay, Viện kiểm sát các cấp đã phục hồi danh dự và bồi
thường thiệt hại cho hàng chục người bị oan.
Về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc
dân sự, trong những năm gần đây, số lượng vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát các
cấp kiểm sát việc lập hồ sơ và tham gia phiên toà ngày càng tăng. Năm 2000 Viện
kiểm sát các cấp kiểm sát lập hồ sơ theo thủ tục sơ thẩm 71.037 vụ việc, năm
2004 lên tới 106.062 vụ việc (tăng 35.025 vụ việc). Năm 2000 Viện kiểm sát các
cấp tham gia phiên toà theo thủ tục sơ thẩm 20.370 vụ án dân sự, năm 2004
lên tới 28.654 vụ (tăng 8.284 vụ).
Trong những năm qua, ngành Kiểm sát đã tập trung
kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp về nhà ở, về tài sản và hôn nhân gia
đình. Các Viện kiểm sát đã trực tiếp khởi tố nhiều vụ tranh chấp dân sự và tích
cực hỗ trợ thu hồi tài sản. Qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự,
Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện nhiều vụ xét xử không đúng và ra văn bản
kháng nghị, đồng thời kiến nghị các cơ quan, tổ chức có biện pháp pháp phòng
ngừa vi phạm.
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh
tế, lao động, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật là lĩnh
vực công tác mới nhưng Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều cố gắng kiểm sát việc
lập hồ sơ, tham gia xét xử nhằm bảo đảm giải quyết các loại án này đúng pháp
luật, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và công dân.
Sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được Quốc
hội thông qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tổ chức tập huấn chuyên sâu Bộ
luật này cho Kiểm sát viên, cán bộ trong ngành, nhất là những nội dung mới liên
quan đến việc điều chỉnh chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự; sắp
xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác này cho phù hợp với
yêu cầu mới.
Công tác kiểm sát thi hành án của Viện kiểm sát các
cấp luôn được coi trọng. Viện kiểm sát các cấp thường xuyên phối hợp với các cơ
quan hữu quan tiến hành rà soát để nắm chắc số người bị kết án phạt tù nhưng
chưa thi hành; kiểm sát chặt chẽ các trường hợp hoãn thi hành án, hưởng thời
hiệu thi hành án để có biện pháp thúc đẩy công tác thi hành án. Qua kiểm sát
việc thi hành án hình sự, Viện kiểm sát các cấp đã kịp thời phát hiện các vi
phạm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm trong việc thi hành án
hình sự; ra nhiều kháng nghị, kiến nghị yêu cầu Toà án nhân dân, cơ quan thi
hành án, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm trong việc thi hành án khắc
phục vi phạm.
Viện kiểm sát đã tích cực tham gia việc xét giảm
thời hạn chấp hành hình phạt tù cho những phạm nhân cải tạo tiến bộ; hàng năm
đều tham gia Hội đồng Tư vấn đặc xá Trung ương để thẩm định, đề nghị Chủ tịch
nước ra quyết định đặc xá cho các phạm nhân có đủ điều kiện, bảo đảm các trường
hợp được đặc xá phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định.
Về công tác kiểm sát thi hành án dân sự, Viện kiểm
sát các cấp đã thường xuyên phối hợp với cơ quan thi hành án, xác định rõ các
trường hợp có điều kiện và các trường hợp không có điều kiện thi hành án để yêu
cầu thi hành kịp thời các bản án có điều kiện thi hành, đồng thời tăng cường
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động cưỡng chế thi hành án, cho
hoãn thi hành án, thu chi tiền thi hành án. Thông qua công tác kiểm sát thi hành
án dân sự, Viện kiểm sát các cấp đã phát hiện nhiều vụ, việc có vi phạm pháp
luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thi hành án và hàng năm đã ban hành nhiều
kháng nghị yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị khắc phục vi phạm.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp được chú trọng. Trung bình từ năm
2000 đến năm 2004, mỗi năm Viện kiểm sát nhân dân các cấp tiếp nhận, giải quyết
hơn 20.000 vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Để nâng cao chất lượng
giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong những năm gần đây, Viện kiểm sát các cấp đã
chấn chỉnh công tác tiếp công dân, tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị
để phục vụ tiếp công dân, quy định rõ trách nhiệm của người tiếp, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân và đề ra nhiều biện pháp để đẩy nhanh tiến độ,
nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhờ vậy, nhiều khiếu
nại, tố cáo bức xúc, kéo dài đã được giải quyết.
Cùng với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
trách nhiệm của ngành Kiểm sát, Viện kiểm sát các cấp đã có nhiều biện pháp
triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt
động tư pháp của các cơ quan tư pháp. Hàng năm, qua kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân các cấp đã ban hành hàng trăm kháng nghị, kiến nghị yêu cầu các cơ quan
tư pháp khắc phục vi phạm trong việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo, bảo đảm
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật.
Về công tác xây dựng ngành, trong những năm qua,
ngành Kiểm sát đã chú trọng đổi mới tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ
kiểm sát. Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát ở 3 cấp ngày càng được kiện toàn và
củng cố. Toàn ngành đã quán triệt đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và hoạt động kiểm sát, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngành Kiểm sát đã xây dựng và không ngừng
hoàn thiện các quy chế quản lý và quy chế nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và công tác kiểm sát.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành
Kiểm sát đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát có
lập trường chính trị vững vàng, am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất
đạo đức trong sáng theo lời dạy của Bác Hồ: Mỗi cán bộ kiểm sát phải công minh,
chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn. Công tác xây dựng ngành thường
xuyên được gắn với công tác xây dựng Đảng.
Lực lượng cán bộ của ngành Kiểm sát
ngày càng được củng cố và lớn mạnh. Năm 1960, khi mới thành lập, toàn ngành Kiểm
sát mới có hơn 800 người. Năm 1975, khi đất nước thống nhất có gần 3000 người.
Đến nay, tổng số cán bộ của toàn ngành đã có gần 11.000 người hoạt động ở các
cấp kiểm sát. Cơ cấu đội ngũ Kiểm sát viên, Điều tra viên hiện nay đã chiếm 72%
tổng số cán bộ toàn ngành (159 Kiểm sát viên VKSNDTC, 2.395 Kiểm sát viên cấp
tỉnh, 4.998 Kiểm sát viên cấp huyện, 7 Điều tra viên cao cấp, 14 Điều tra viên
trung cấp, 2 Điều tra viên sơ cấp).
Ngành Kiểm sát luôn chú trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Năm 1977, toàn ngành Kiểm sát chỉ có 0,3% số người có trình độ Đại
học luật và Cao đẳng kiểm sát, năm 1988 là 18%. Đến nay, đã có 5.961 người có
trình độ Đại học luật trở lên, chiếm 56,6% tổng số cán bộ toàn ngành, trong đó
Thạc sĩ 110 người, Tiến sĩ 19 người. Ngành Kiểm sát đang tiếp tục đẩy nhanh tiến
độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đáp ứng yêu cầu của từng chức danh cán bộ và yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới của đất nước,
Tuyệt đại bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra
viên và công chức trong ngành đã không ngừng học tập, tôi luyện, trở thành những
người có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng và Nhà nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Đảng và nhân dân tin cậy.
Ngành Kiểm sát nhân dân đã có thái độ kiên quyết, kịp thời xử lý nghiêm minh
những cán bộ, Kiểm sát viên vi phạm, phạm tội để đội ngũ được trong sạch và vững
mạnh.
Cơ sở vật chất của ngành Kiểm sát những năm gần đây
được tăng cường đáng kể. Để khắc phục tình trạng thiếu thốn, xuống cấp về trụ sở
làm việc trong những năm trước đây, từ năm 2001 đến năm 2005 Nhà nước đã cấp cho
ngành Kiểm sát để đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Viện kiểm sát nhân dân các
cấp là 420.800 triệu đồng. Ngày 27/8/2002 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định
số 716/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng hệ thống 225 trụ sở làm việc của
Viện kiểm sát nhân dân các cấp giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2005.
Tổng số trụ sở của Viện kiểm sát các cấp và các đơn
vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay là 728, trong đó có 64 trụ
sở thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, 658 trụ sở thuộc Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện, 2 trụ sở thuộc Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2 trụ sở
thuộc Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2 Trường Kiểm sát).
Đến nay, số trụ sở ổn định có thể đáp ứng được yêu
cầu làm việc hoặc đang được đầu tư xây dựng là 350 (đạt 48% tổng số trụ sở). Số
trụ sở còn lại đang được xem xét để đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo.
Cùng với việc được đầu tư xây dựng, sửa chữa, cải
tạo trụ sở, trong những năm qua, ngành Kiểm sát cũng được tăng cường đầu tư
phương tiện làm việc nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Từ năm
2002 đến nay, ngành Kiểm sát đã thực hiện Đề án trang bị phương tiện làm việc
cho ngành giai đoạn I với tổng số tiến được cấp là 83.235 triệu đồng. Mạng lưới
công nghệ thông tin, cơ yếu của ngành đang từng bước được trang bị theo hướng
hiện đại để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ kiểm sát và hoạt động quản lý, chỉ
đạo điều hành trong ngành.
Với những cố gắng và trưởng thành qua
45 năm xây dựng và phát triển, ngành Kiểm sát nhân dân đã hai lần được Đảng và
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cao quý (vào năm 1985 và năm 1990);
nhiều tập thể đơn vị và cá nhân trong ngành được tặng thưởng Huân chương Lao
động các loại.
Cùng với sự ra đời của ngành Kiểm sát
nhân dân, hệ thống Viện kiểm sát quân sự các cấp cũng được tổ chức trong quân
đội đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương và chịu sự chỉ đạo tập
trung, thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 45 năm qua,
trong từng giai đoạn của đất nước, các Viện kiểm sát quân sự đã thường xuyên bám
sát nhiệm vụ chính trị của quân đội, xây dựng và phát triển lực lượng, bảo đảm
thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, củng cố quốc phòng an ninh, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã
đạt được, so với với yêu cầu của công cuộc đổi mới, công tác của ngành Kiểm sát
vẫn còn những khuyết điểm, tồn tại. ở nhiều Viện kiểm sát địa phương, việc quản
lý thông tin tội phạm chưa tốt, thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp chưa
chặt chẽ nên còn để xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, nhiều vụ án còn để kéo
dài quá hạn luật định. Vẫn còn để xảy ra một số trường hợp khởi tố, bắt, tạm
giữ, tạm giam, truy tố oan, sai. Chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và nhữngc
việc khác theo quy định của pháp luật chưa cao. Việc giải quyết các đơn đề nghị
xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án còn chậm. Công tác thi
hành án còn nhiều tồn tại có phần trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp. Chất
lượng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên hiện nay tuy được nâng lên nhưng vẫn chưa
đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của cải cách tư pháp. Công tác quản lý, rèn
luyện cán bộ có nơi, có lúc chưa tốt dẫn đến một số cán bộ mắc sai phạm phải bị
xử lý kỷ luật.
III. Một số bài học kinh nghiệm
Từ những thành tựu và những thiếu
sót, tồn tại qua 45 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Kiểm sát nhân dân có
thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu dưới đây:
Một là, phải luôn bám sát các nhiệm
vụ chính trị của cách mạng để xác định nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong từng
giai đoạn.
Quán triệt quan điểm công tác kiểm
sát là công tác chính trị, công tác kiểm sát phải phục vụ nhiệm vụ chính trị,
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ngành Kiểm sát đều quán triệt đầy đủ các
Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, căn cứ vào pháp luật để đề ra các nhiệm vụ
trọng tâm của mình. Suốt 45 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân
dân luôn xác định cho mình nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa với thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Hai là,
phải luôn chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, trung
thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, có trình độ, năng lực nghiệp vụ, dũng
cảm đấu tranh bảo vệ công lý và pháp luật, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm
nghề nghiệp.
Thực tiễn đã khẳng định, công tác cán
bộ luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của
ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát có ý thức chính trị vững vàng, am hiểu
về chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng về phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách
nhiệm và lương tâm nghề nghiệp là yếu tố quyết định thành công của hoạt động
kiểm sát. Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu của cải cách tư pháp, ngành
Kiểm sát phải tiếp tục chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát theo 5 đức tính
mà Bác Hồ đã dạy: Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn;
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, gắn công tác đánh giá, quy hoạch
với công tác đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ theo tinh thần đổi mới;
tăng cường công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện cán bộ; xử lý kịp thời,
nghiêm minh những cán bộ có sai phạm.
Cùng với công tác cán bộ ngành Kiểm
sát phải tiếp tục kiện toàn, củng cố tổ chức bộ máy cho phù hợp với yêu cầu của
tình hình mới, hoàn thiện cơ chế quản lý, chỉ đạo, điều hành có hiệu quả, bảo
đảm sự chỉ đạo thống nhất trong ngành.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với ngành Kiểm sát là nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân.
Để xây dựng ngành Kiểm sát thật sự
trong sạch, vững mạnh, phát huy hiệu lực và hiệu quả hoạt động, ngành Kiểm sát
phải quán triệt đầy đủ các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng để xác định nhiệm vụ
chính trị trong từng giai đoạn cách mạng; đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt
động dưới sự lãnh đạo của Đảng; không ngừng củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Ban cán sự Đảng, xây dựng Đảng bộ, Chi bộ kiểm sát ở tất cả
các cấp kiểm sát thực sự trong sạch, vững mạnh.
Bốn là, để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát phải chủ động phối hợp với
các cơ quan nhà nước, trước hết là các cơ quan bảo vệ pháp luật trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát phải chủ động phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ do pháp luật
quy định, nhất là phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác trong việc
triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Chính phủ
về công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; đấu tranh phòng,
chống các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về tham nhũng, buôn
lậu, ma tuý và các loại tội phạm có tổ chức.
Năm là, Hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân các cấp phải được sự giám sát và ủng hộ của nhân dân, quán triệt đầy đủ
tính nhân dân trong hoạt động kiểm sát.
Trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình Viện kiểm sát các cấp phải dựa vào nhân dân, chịu sự giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan
đoàn thể ở Trung ương và địa phương, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân, tích cực
đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp thường xuyên với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội.
Viện kiểm sát các cấp cũng phải luôn
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí để nắm thông tin về tội phạm và tuyên
truyền pháp luật, tạo sự đồng thuận trong dư luận xã hội để đấu tranh với tội
phạm và vi phạm pháp luật, xây dựng ngành Kiểm sát trong sạch, vững mạnh.
*
* *
45 năm qua, được sự quan tâm
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự giám sát
chặt chẽ của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Chính
phủ và ủy ban nhân dân, sự ủng hộ và giám sát của ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các cơ quan đoàn thể ở Trung
ương và địa phương, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể, tổ chức và sự
ủng hộ của nhân dân, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được nhiều thành quả to lớn.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu của
cải cách tư pháp, toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân sẽ tiếp
tục phấn đấu, khắc phục khó khăn, thử thách vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ
được Đảng và Nhà nước giao cho, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục
vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xứng đáng với
sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Xin cảm ơn!